Thơ Hàn Mặc Tử bộc lộ một thế giới nội tâm mãnh liệt với những cung bậc cảm xúc được đẩy đến tột cùng. Đọc “mùa xuân chín”, ta thấy Hàn Mặc Tử đã mượn bức tranh xuân tươi đẹp, rạo rực, tràn đầy sức sống để bày tỏ cái “xuân chín” trong lòng người.
Người Số 8 là những người rất chú trọng chuyện ăn mặc và tự hào về ngoại hình - không chỉ của bản thân mình mà cả những người họ yêu thương. Họ là con người của cảm xúc, nhưng thường che giấu sự nhạy cảm của mình cho đến khi họ đủ trưởng thành để bày tỏ.
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã từng nhận xét về thơ rằng: “thơ không cần nhiều từ ngữ nó cũng không quan tâm đến hình xác của sự sống nó cũng chỉ cần cảm nhận và truyền đi một chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn thi sĩ”.Điều này được thể hiện rõ
Đã sửa 1 lần, lần cuối bởi Nguyệt Thu vào 28/09/2011 06:57. ''Thơ diên'' ngay ở nhan dề đó dã thu hút nhiều bạn dọc dến với 1 tập thơ suất sắc của Hàn mạc tử một cây bút tài hoa bạc mệnh.Ở đây tôi muốn giành thời gian nói về bài thơ ''Dây thôn vĩ dạ''dược rút ra
Tài liệu Đọc thêm về thi sĩ Hàn Mặc Tử, Ngữ văn lớp 11. Tháng Tám 16, 2016 admin Tài liệu Khối 11 Miễn bình luận. Bây giờ Hàn Mặc Tử đã nằm trên một điểm cao Gềnh Ráng (Quy Nhơn, Bình Định) đối diện với bể Đông. Bể chói loà như thơ anh và dông bão lựa hồ đời anh.
Giới chức Hàn Quốc cho biết hôm 16/10, Văn phòng của Tổng thống Yoon Suk-yeol đã trực xuyên đêm trước thông tin Triều Tiên có thể tiến hành vụ thử hạt nhân lần thứ bảy bất kỳ lúc nào. Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol (giữa) đến văn phòng ngày 14/10. Ảnh: Yonhap
Ngoài ra còn có 2 câu thơ rất tình cảm mà Hàn thi sĩ viết cho nàng Cúc: Muốn ôm hồn Cúc ở trong sương. Hình ảnh nàng Cúc hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thường huyền ảo như khói, như sương, tương tự như trong bài thơ nổi tiếng nhất của ông: Ở Đây Thôn Vỹ Dạ (sau này
ubWC9Lr. Chuyên đề THI SĨ HÀN MẶC TỬ - TÁC GIA, TÁC PHẨM VÀ TIẾP NHẬN Quy Nhơn, ngày 21/9/2019 NGUYỄN HỮU SƠN Viện Văn học 20 Lý Thái Tổ, Hoàn Kiếm, Hà Nội Tel 0913031635 Chuyên đề gồm ba nội dung chính Tình hình văn bản - Quá trình tiếp nhận Hàn Mặc Tử qua các thời kỳ - Tiếp nhận Hàn Mặc Tử sau Đổi mới 1986 và định hướng nghiên cứu hiện nay… I. TÌNH HÌNH VĂN BẢN THƠ VĂN HÀN MẶC TỬ 1. Về nguồn thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận Thi sĩ Hàn Mặc Tử 1912-1940, còn có các bút danh Hàn Mạc Tử, Minh Duệ Thị, Phong Trần, Lệ Thanh, Lệ Thanh nữ sĩ, Lệ Giang, Sông Lệ, Mộng Cầm, Trật Sên, Cụt Hứng, Foong Tchan, Mlle Phương Liên, Anh Hoa, Cô Đài Trang, Cô Bạch Bình Giang…; từng cộng tác với các báo Tiếng dân, Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Sài Gòn, Tân thời, Người mới, Ngày nay, Tin tức, Công luận, Trong khuê phòng, Đông Á tân văn, Impartial, Opinion, La Lutte… Theo quan sát của chúng tôi, công trình sưu tập văn bản học tốt nhất về Hàn tính đến nay chính là Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm Tái bản. NXB Văn học, H., 2002; 528 trang của nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ PCĐ, 1933-2007. Trong sách Thơ Hàn Mặc Tử NXB Văn hóa – Thông tin, H., 2001; 342 trang, soạn giả Mã Giang Lân MGL dựa vào thống kê của Phạm Đán Bình Tin nhà, Paris, số 2-1991 cho biết thêm nhan đề 18 mục bài viết của Hàn, đồng thời xác định “thơ Hàn chúng ta mới được đọc chừng 150 bài, còn thất lạc đâu đó” và kỳ vọng “Cái phần chìm khuất kia hy vọng sẽ dần dần được kiếm tìm, bồi đắp, sung mãn”… Trong quá trình sưu tập tài liệu cho công trình “Người đương thời Thơ mới bàn về Thơ mới” và “Di sản văn học Quốc ngữ đến 1975”, chúng tôi vừa tìm thêm được số lượng lớn tác phẩm của Hàn in trên báo Công luận CL, Sài Gòn, 1916-1939 ngoài số đã từng công bố... Hình thức nghệ thuật những bài thơ này khá phong phú, phần lớn làm theo thể Đường luật, một số bài theo lối thơ tự do và các thể hồi văn, ngũ ngôn, lục ngôn, thất ngôn xen lục ngôn, thủ vĩ ngâm, song thanh, hát nói, từ khúc, lục bát, song thất lục bát… Về nội dung, phần nhiều các bài thơ hướng tới các giá trị nhân văn, xướng họa với chí sĩ Phan Bội Châu và bạn bè Quách Tấn, Tùng Ngâm, Ngọc Hồ, Trần Bình Lộc, các bạn ở Phú Mỹ - Bình Định và cả những tứ thơ Gửi cho người không quen biết, Phút mơ màng, Tương tư, Canh khuya nhớ bạn…; mở rộng lối thơ du ký, đề vịnh thắng cảnh non sông đất nước xứ Huế, Phan Thiết, chùa Ông Núi – Bình Định, thú chơi tao nhã và vẻ đẹp bốn mùa Cầm, Kỳ, Thi, Tửu; Xuân, Hạ, Thu, Đông; Phong, Hoa, Tuyết, Nguyệt…; tiếp nối dòng thơ hiện thực, phản ánh tâm trạng thi nhân trước hiện tình xã hội với các bài Đêm khuya ở nhà quê, Làm ruộng tự thuật, Than nghèo, Đau mới dậy, Đóng tuồng, Sống khổ và phấn đấu, Theo cách đọc “liên văn bản” có thể thấy thơ Hàn thực sự tiêu biểu cho quá trình hiện đại hóa, tiếp nối giữa hiện tượng sử dụng lối thơ truyền thống với việc gia tăng vai trò nguồn cảm xúc mới; giữa việc khai thác hệ thống chủ đề, đề tài quen thuộc với khả năng bộc lộ tiếng nói của chủ thể trữ tình cá nhân kiểu mới. Đặt trong tương quan so sánh đồng đại có thể nhận ra tứ thơ Gởi cho ai, Nhắn ai, Gởi cho người không quen biết của Hàn tương đồng với những Thư đưa người tình nhân không quen biết, Thư trách người tình nhân không quen biết, Thư lại trách người tình nhân không quen biết của Tản Đà, rồi tương đồng với những Nhắn nhủ, Nhắn ai, Lại nhắn ai của Quách Tấn, Nói riêng trong phạm vi thơ Hàn Mặc Tử, dễ thấy nhiều câu thơ, ý thơ trong số những bài mới phát hiện này có sự giao thoa, gặp gỡ, tiếp nối với nhiều tứ thơ đã biết để làm nên phong cách độc đáo họ Hàn. Đọc câu thơ Ô hay, người thế toàn yêu quái Họa – CL, số 6671, ra ngày 22-10-1934, lại nhớ ý thơ Ô hay, người ngọc biến ra hơi Mơ hoa; đọc câu thơ Dưới trăng đi lững thững/ Bóng dọi ngắm thành đôi Dưới trăng - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, lại nhớ Ai đi lẳng lặng trên làn nước/ Với lại ai ngồi khít cạnh tôi Cô liêu; đọc câu thơ Gió đông mơn trớn nhẹ Hái hoa - CL, số 6671, ngày 22-10-1934, lại nhớ Gió say lướt mướt trong màu sáng Huyền ảo; Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu/ Đợi gió đông về để lả lơi Bẽn lẽn; đọc câu thơ Em khoe sắc đẹp bên cành lả/ Dáng điệu mơ màng vẻ thướt tha/ Đón cái xuân về vị tỉnh say/ Đỏ rần đôi má ửng hây hây Yêu để sống - CL, số 6802, ngày 6-4-1935, lại nhớ những câu Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha Hoa cúc; Trăng bay lả tả ngả lên cành vàng Rượt trăng; Từ khi đôi má đỏ hây hây/ Em tập thêu thùa, tập vá may… Những lượt thu về, em thấy xuân/ Trên đôi má nõn lại phai dần Duyên muộn; Xuân em hơ hớ như đào non/ Chàng đã thương thương muốn kết hôn/ Từ ấy xuân em càng chín ửng Mất duyên, Những bài thơ mới phát hiện được của Hàn được ký với các bút danh Hàn Mặc Tử, Lệ Thanh, Phong Trần, có khi ký tên chung Hàn Mặc Tử và Huyền Không nữ sĩ... Trên thực tế, có khi tác giả ký tên ở từng bài CL, số 6423, có khi ký ở bài cuối trong cùng số có nhiều bài khác nhau CL, số 2587, 2610…, có khi ký vài bút danh ở nhiều bài thơ khác nhau trong cùng một số báo CL, số 2610, 6766, 6778…. Đi vào so sánh văn bản những bài thơ của Hàn từng được công bố trên các sách của PCĐ và MGL thì thấy có mấy sự sai khác. Ở bài Đêm khuya tự tình với sông Hương, cả hai sách đều sai hai chữ trong hai câu thơ Trong thành ngự chết con đen, bản gốc in chữ ngự kia là ngũ, đọc đúng là Trong thành ngủ chết con đen; câu Chiếc thuyền vô định tạt vào bến mê, bản gốc là Chiếc thuyền vô định tạc vào bến mê CL, số 6772, ra ngày 2-3-1935, Với bài Tuồng đời, PCĐ sai hai chữ quan trọng ở câu thơ thứ nhất Tuồng đời lặng lẽ vẽ nên phông, đúng phải là Tuồng đời lăng lố vẽ nên phông CL, số 6790, ra ngày 23-3-1935, Đặc biệt với bài thơ Sống khổ và phấn đấu dài 27 câu, sách PCĐ chỉ in 8 câu trong đó sai chữ ở câu 8, thiếu mất 19 câu CL, số 6802, ra ngày 6-4-1935, 2. Về nguồn văn xuôi Hàn Mặc Tử - Hàn Mặc Tử Bóng liễu bên hồ Truyện ngắn. Sài Gòn, số 657 ra ngày 5-10-1935, - Hàn Mặc Tử Thuật Muốn yết kiến quan tổng thống Lebrun phải một phen vất vả và kinh sợ Một thiên phóng sự ly kỳ 4 kỳ. Sài Gòn, số 658 ra ngày 7-10-1935, số 659 ra ngày 8-10-1935, số 660 ra ngày 9-10-1935, số 661 ra ngày 10-10-1935, - Hàn Mặc Tử Rửa thù Truyện trinh thám. Sài Gòn, số 659 ra ngày 8-10-1935, - Hàn Mặc Tử Thuật Tặng anh JID Cái phòng tối hay là một thiên tiểu thuyết ly kỳ trong nghề trinh thám. Sài Gòn, số 662, ra ngày 11-10-1935, - Khách Tha Hương Hàn Mặc Tử ??? Tặng anh JID Nước Xiêm cũ và nước Xiêm mới – Một đoạn lịch sử tiến hóa của nước Xiêm. Sài Gòn, số 662, ra ngày 11-10-1935, - Lệ Thanh Hàn Mặc Tử Đêm xuân rừng thiền. Sài Gòn, số 753, ra ngày 17-2-1936, 3. Về nguồn phê bình, khảo cứu, dịch thuật của Hàn Mặc Tử Sinh thời Hàn Mặc Tử 1912-1940 không chỉ sáng tác thơ mà còn nêu quan niệm thơ và trao đổi về luật thơ với Phan Bội Châu, Lam Giang, Trương Tửu; có dẫn giải, bình luận thơ Quách Tấn, Bích Khê, Chế Lan Viên; có giảng luận về Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Kép Tư Bền của Nguyễn Công Hoan; có ghi chép văn xuôi, tranh luận về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” của Đinh Bá Kha; có khảo luận về lịch sử Nhật Bản, phong dao Ai Cập; có phác vẽ chân dung nhà văn, nhà triết học người Pháp Rousseau 1712-1778 và nhà thơ, nhà viết kịch người Ireland Yeats 1865-1939, giải Nobel Văn học năm 1923 và đi sâu giới thiệu nguồn thơ tình của người Cộng sản vĩ đại Karl Heinrich Marx – So với dẫn giải trong sách Thơ Hàn Mặc Tử MGL, PCĐ nêu trên, trước hết cần chỉnh lý, chuẩn hóa nhan đề một số bài viết của Hàn không phải Những câu hát phong tình của cổ Ai Cập mà là Những câu hát phong tình của nước cổ Ai Cập; không phải Khái niệm về thi ca làm thơ cần phải luyện khí mà là Khái niệm về thi ca Thơ có mấy lối? Làm thơ cần phải luyện khí; không phải Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về nhân thế Chỉ Cảnh fin de la vie humaine ở học xá Pháp Việt Quy Nhơn mà là Đi nghe ông Đinh Bá Kha diễn thuyết về vấn đề triết học “Nhân thế chỉ cảnh” ở Học xá Pháp - Việt Quy Nhơn… Đồng thời với việc cung cấp đầy đủ văn bản gốc những bài báo trước nay mới chỉ biết nhan đề, nhân đây chúng tôi giới thiệu thêm một số tác phẩm văn xuôi khác của Hàn vừa tìm lại được Mười lăm phút nói chuyện với bà Lê Thành Tường, cựu chủ nhiệm báo Phụ nữ Tân tiến ở Huế Trung Kỳ CL, số 6216, ra ngày 4-4-1933; Khảo về lịch sử Nhật Bản từ nguyên thỉ đến hiện thời CL, từ số 6417, ra ngày 10+11-12-1933; Chết CL, số 6693, ngày 22-11-1934; Rousseau, tiểu thuyết gia CL, số 6760, ra ngày 16-2-1935; Thử ngó qua nước Ái Nhĩ Lan một nhà thi hào được phần thưởng Nobel năm 1924 CL, số 6778, ra ngày 9-3-1935, Tất cả những tác phẩm trên góp phần cho phép chúng ta hình dung đầy đủ, sâu sắc, chuẩn mực, toàn diện hơn nữa chân dung con người, tư tưởng và sự nghiệp văn chương Hàn Mặc Tử… Ở đây chỉ xin giới thiệu một phần bài viết Karl Marx thi sĩ của Hàn Mặc Tử in trên báo Công luận Sài Gòn, số 6825, ra ngày 4-5-1935, Nhận diện đời sống văn học đương thời liên quan đến một tập thơ tình xuất hiện ở nước Đức, Hàn Mặc Tử cho biết “Như một tiếng sấm nổ, tập thi ấy Buch der Lieder Ca ngâm thi tập làm chấn động dư luận, đến nỗi Đức quốc phải triệu tập Đại hội đồng Dièle để ra đạo luật cấm không cho lưu hành quyển thi ấy trong nước nữa. Bởi đâu mà tiên sinh có tài liệu phong phú để viết ra tập Ca ngâm ấy? Kết quả, uyên nguyên một phần ở máu nóng của tuổi thanh niên, một phần ở cái tình cảm nồng nàn, thứ tình mơ mộng mà các nhà thi sĩ hầu hết ai cũng có cả. Xa cách ý trung nhân đã lâu, tiên sinh khao khát, nhớ nhung, mà mỗi lần nghĩ tới cái sắc đẹp lộng lẫy, cái phong thái yêu kiều của một vị tiểu thơ con nhà đài các thì tiên sinh lo ngại nàng sẽ về tay các vương tôn công tử khác”… Từ đây Hàn Mặc Tử thông tin khái lược về mối tình thắm thiết của chàng trai trẻ vừa tròn 18 tuổi Karl Marx với Jenny de Westphalen để chàng có thể viết liền ba tập thơ. Những vần thơ yêu đương chân thành giúp cho tình yêu đôi trẻ thêm phần thăng hoa, vượt qua mọi trở ngại, khó khăn “Cái kết quả đầu tiên của những công trình ấy, là ba tập thi văn mà tiên sinh gởi tặng cho người tình hồi tháng Chạp năm 1836, ba tháng sau khi tiên sinh tựu trường ở Đại học đường Bá Linh Đại học Berlin - NHS thêm. Tập đầu nhan đề Ca ngâm thi tập, tác giả Karl Marx, Bá Linh 1836 và hai tập sau Buch der Lieder, Ái tình thi tập, tác giả Karl Heinrich Marx, tháng mười một, năm 1836. Cũng trong năm ấy, lúc nghỉ hè ở thành Trêves, tiên sinh liền đính hôn bí mật với người yêu. Nhờ cái ái tình của đôi bên đã san sẻ cho nhau, tiên sinh sung sướng quá liền hăng hái ngâm vịnh thêm, bổ cứu lại những đoạn khuyết điểm trong mấy tập nói trên kia. Những tập ấy có đề mấy chữ như vầy “Kính tặng tình nương yêu quí Jenny de Westphalen”. Trong một bức thư của người chị tiên sinh gửi đến cho tiên sinh hay rằng, Jenny đọc những hàng chữ ấy thì cảm động quá, cười ra nước mắt”… Dựa trên các nguồn tư liệu từ tập sách tiểu sử xuất sắc Karl Marx The Story of His Life in lần đầu năm 1918 của Franz Mehring, Hàn Mặc Tử đã tỏ ý phản biện và đi đến khẳng định, nhấn mạnh tính chất sinh động, nồng nhiệt của thơ Karl Marx bằng chính bài thơ của Marx. Hàn Mặc Tử đặt câu hỏi phản vấn rồi khéo định hướng bạn đọc cùng trả lời “Trong tập Tiểu sử Karl Marx, Franz Mehring có phê bình rằng “Những tập thi của Marx có tính cách thiếu niên, đại để đều có chịu ảnh hưởng một thứ văn lãng mạn xấu xa nếu không thấy có những đoạn hay…”. Câu phẩm bình nghiêm khắc ấy có đúng với sự thật không? Xin mời độc giả hãy đọc thử bài thơ của tiên sinh sau đây Tôi không thể ngồi yên không hoạt động, Trong khi tâm hồn bồng bột như sóng. Tôi không thể tọa thị làm thinh, Khi muôn vật quyến rũ tôi vào trận đấu tranh. Tôi muốn chinh phục cả bầu vũ trụ, Nào hưởng lấy ân huệ của ngôi sao Thượng đế, Nào dung hòa những học thuyết trứ danh, Nào hy sinh với tất cả nghệ thuật trọn lành, Hăng hái ta mau sấn bước… Xem một đoạn trên này cũng đủ thấy tính cách thi văn của tiên sinh là ưa hoạt động biết dường nào”... Từ đây Hàn Mặc Tử lý giải cuộc đấu tranh tư tưởng trong Marx về mối quan hệ giữa niềm yêu thơ ca với sự nghiệp chính trị, giữa xúc cảm yêu đương cá nhân với cuộc tranh đấu vì tiến bộ xã hội, giữa sở thích nghệ thuật riêng tư với vận mệnh của cả thế giới loài người rộng lớn. Với những trích dẫn chọn lọc đặc sắc, Hàn Mặc Tử đi sâu phân tích, đúc kết ngắn gọn về khả năng tự phản biện, tự thức tỉnh, chuyển hóa nhằm xác định giá trị và lựa chọn lý tưởng sống “Một năm sau khi gởi tặng vị hôn thê những tập thi lần đầu thì tiên sinh hình như chán ngán với cái danh hiệu “thi sĩ”. Nhưng cũng may nhờ thân phụ tiên sinh viết thơ khuyến khích, nên tiên sinh trở lại âu yếm với Nàng Thơ, tình duyên chưa đến nỗi đoạn tuyệt. Lối tháng ba năm 1837, tiên sinh có viết câu “… Sau kỳ khảo hạch tôi lại đi tìm nàng Ly Tao trong những âm hưởng lâm ly hùng tráng”. Rồi tiên sinh lại nhìn đến những quyển thơ trước kia, tự phê bình rằng “Một mớ cảm tình phức tạp, không có gì là đặc sắc, toàn những câu ngâm huê vịnh nguyệt viển vông… Những tập thơ ấy là cái quan niệm về khoa ngôn ngữ hơn là những tư tưởng về thi văn”. Tự biết mình không thể đeo đai với nghề thơ, tiên sinh bèn đổ cho thơ văn là một món tiêu khiển tạm thời. Bắt đầu năm 1837, Karl Marx mới “ly dị” hẳn với Nàng Thơ. Vì tiên sinh lúc ấy chuyên chú về triết học, quyết tâm áp đảo tay địch thủ là Hegel”... Đến đoạn cuối, Hàn Mặc Tử cho biết trước sau Karl Marx vẫn không xa rời được thơ ca, không xa rời được nguồn sáng trào lưu lãng mạn do Goethe 1749-1832 khởi xướng từ vài ba thập kỷ trước. Điều này xác nhận thơ ca thuộc lĩnh vực tinh thần thực sự cao sang, trí tuệ, có giá trị và sức hấp dẫn riêng, cho đến chính Karl Marx vẫn mãi gắn bó “Thời kỳ ấy những thi ca bình dân rất thạnh hành ở nước Đức. Nhà thi sĩ Goethe lúc bấy giờ còn là học sanh ở Strasbourg, liền triệu tập một số danh nhơn trong khi du ngoạn ở Alsace và lập thành lối văn lãng mạn Ecole Romantique. Những nhà văn có tiếng tăm như Schlegel, Tieck, Novalis, Clemens, Brentano và Achim von Arnim, Eichendorf, đều có xuất bản nhiều tập thi ca… Bị phong trào lôi cuốn, Marx lại tham dự vào công cuộc ấy”... Hàn Mặc Tử cho đăng báo bài viết Karl Marx thi sĩ vào năm 1935, khi thi sĩ mới ngoài hai mươi tuổi, chưa thành danh, chưa xuất bản tập thơ nào. Bài báo thể hiện sự đồng điệu của hồn thơ Hàn Mặc Tử từ nước Việt thuộc địa phương Đông với tiếng thơ của người đứng đầu phong trào Cộng sản quốc tế. Qua sự kiện này có thể xác định Hàn Mặc Tử đã có sự hiểu biết quan trọng về cuộc đời, sự nghiệp và thơ ca Karl Marx. Điều quan trọng hơn, giữa vòng vây của chế độ kiểm duyệt đương thời, cây bút trẻ Hàn Mặc Tử vẫn có cách giới thiệu, tuyên truyền, đưa thơ Karl Marx và quan điểm nghệ thuật của Marx Trẻ đến với đông đảo công chúng bạn đọc. III. QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN HÀN MẶC TỬ QUA CÁC THỜI KỲ 1. Người đương thời tiếp nhận thơ Hàn Mặc Tử *** - Chương Đài Gái quê của Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 178, ra ngày 1-12-1936, Chưa Foto… - Hàn Mặc Tử Những văn tài mới nở Chế Lan Viên − thi sĩ của vong quốc Chiêm Thành. Tràng An báo, số 235, ra ngày 6-7-1937, - Trần Thanh Địch Thi sĩ với ngày xuân. Tràng An báo, số 292, ra ngày 25-1-1938, - Một Nữ Thính Giả Bình Định lắm duyên với thi sĩ. Tràng An báo, số 326, ra ngày 3-6-1938, số 327, ra ngày 7-6-1938, số 328, ra ngày 10-6-1938, - Hoàng Diệp Một cái tang trong thi giới Hàn Mặc Tử đã từ trần ở Qui Hòa. Tràng An báo, số 610, ra ngày 26-11-1940, *** Một di cảo của Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 610, ra ngày 26-11-1940, - Hoàng Diệp Thơ Hàn Mặc Tử dưới mắt tôi. Tràng An báo, số 681, ra ngày 24-2-1941, - Phất Văn Tử Một buổi diễn thuyết về Hàn Mặc Tử ở Hội Cercle d’etudes Qui Nhơn. Tràng An báo, số 847, ra ngày 13-9-1941, - Phó Xuyên Hà Xuân Tế Thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tràng An báo, số 893, ra ngày 7-11-1941, - Tài Xuyên Mùa xuân với thi nhân. Tràng An báo, số 974, ra ngày 21-2-1942, số 975, ra ngày 23-2-1942, số 976, ra ngày 24-2-1942, số 977, ra ngày 25-2-1942, - Nguyễn Tiến Lãng Quyển Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại. Tràng An báo Bộ mới, số 25, ra ngày 9-6-1942, - Nhân ngày đại tường của thi sĩ Hàn Mặc Tử. Tràng An báo Bộ mới, số 87, ra ngày 14-11-1942, - Đỗ Hữu Phú Thi sĩ với mùa xuân. Tràng An báo, số 402 Bộ mới, ra ngày 8-2-1945, 2. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử ở các vùng đô thị miền Nam 1945-1975 Có các tác giả Hoàng Trọng Miên, Châu Hải Kỳ, Nguyễn Văn Xê, Phạm Xuân Tuyển, Hoàng Diệp, Quách Tấn, Lê Huy Oanh, Nguyễn Kim Chương, Võ Long Tê, Phạm Đán Bình, Bùi Xuân Bào… 2. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử ở miền Bắc 1945-1975 Chủ yếu phê phán, qui kết “cái tôi cá nhân”, “suy đồi”… 3. Tiếp nhận Hàn Mặc Tử từ thời Đổi mới 1986 đến nay Nhiều sách. Tập trung trong HMT – Về tác gia và tác phẩm Phan Cự Đệ và Nguyễn Toàn Thắng tuyển chọn, giới thiệu… Phụ lục - NHS Cảm quan Phật giáo trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ISSN 1859-0136, số 7 239-2018, 1. Dựa trên hệ thống văn bản tác phẩm Hàn Mặc Mạc Tử hiện đã được xuất bản, cần ghi nhận và khẳng định trên hết, trước hết tinh thần Công giáo, niềm tin Kinh Thánh, sùng kính Đức Mẹ Maria chính là dòng mạch tư tưởng chủ đạo trong toàn bộ thi phẩm của ông . Đây là một lẽ hiển nhiên bởi Hàn Mặc Tử “thuộc gia đình Công giáo lâu đời, tên thánh rửa tội là Phêrô, thánh thêm sức Phanxico Xavie” , sau này vì những nỗi đau thể xác và tinh thần mà ông càng hằng sống trong nguồn sáng Chúa cứu thế an lành… 2. Nghiên cứu định lượng trường hợp thơ Hàn Mặc Tử có thể thấy một tỉ lệ nhất định những bài thơ, câu thơ, ý thơ và ngôn từ bộc lộ cảm quan Phật giáo xuất hiện bên cạnh dòng chủ lưu tâm linh Thiên Chúa giáo. Với hệ thống các bài thơ Chùa Ông Núi Phù Cát, Chùa hoang, Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa, Gái ế chồng đi tu, Gái ở chùa, Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi, Đêm ngủ trong chùa Ông Núi, Ngoạn cảnh chùa 2 bài, Huyền ảo, Cao hứng, Phan Thiết! Phan Thiết…, Hàn Mặc Tử đã thể hiện rõ cảm quan Phật giáo trong sáng tác của mình. Hiện tượng sáng tác giao thoa, tiếp nhận định hướng tư tưởng và cảm quan Phật giáo kiểu này càng trở nên độc đáo khi chúng ta biết rằng Hàn Mặc Tử là một tín đồ Thiên Chúa giáo và tác phẩm của ông cũng căn bản thuộc về nước Chúa… Tại mục bài Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng Trí in trong sách Nhà văn hiện đại Quyển ba. Nxb. Tân dân, Hà Nội, 1943, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan xác định “Thơ Đường luật của Hàn Mạc Tử không phải bài nào cũng được toàn bích như bài trên này Buồn thu – NHS chú. Nhiều bài ý cũng rất sáo và phảng phất có cái giọng thời thế, nửa lối Tú Xương, nửa lối Thanh Quan. Thí dụ bài sau này đăng trong Phụ nữ tân văn số 97-27 Aout 1931, trang 16 và ký tên là Qui Nhơn Chùa hoang Mái sụp, tường xiêu, khách ngẩn ngơ, Hỏi thăm duyên cớ, Phật làm lơ! Vắng sư bụt đá toan hồi tục, Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa. Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng, Bình phong rêu bám đứng chơ vơ. Tiếng chuông tế độ rày đâu tá? Để khách trầm luân luống đợi chờ! Thơ Hàn Mạc Tử hồi đầu như thế, mà chỉ bảy tám năm sau đã thay đổi hẳn, thay đổi cả ý lẫn lời. Trong thời kỳ đổi mới này, ông soạn được rất nhiều thơ và chia ra nhiều tập Thơ Điên, Xuân như ý, Thượng Thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội” … Xin nói thêm, bài thơ Chùa hoang còn được Nguyễn Bá Tín 1915-?, em ruột Hàn Mặc Tử, giới thiệu với nhan đề Chùa Ông Núi Phù Cát trong khi ông lại đưa ra một bài Chùa hoang khác, sẽ nói sau, chỉ sai khác có hai chữ trong câu mở đầu Mái dột tường xiêu liễu ngẩn ngơ , Hỏi thăm duyên cớ Phật làm lơ. Vắng sư bụt đá toan hồi tục, Lạnh khói hương cây sắp thoát chùa . Hoành cổ nhện giăng treo lỏng chỏng, Bình phong rêu bám đứng chơ vơ. Tiếng chuông tế độ rày đâu đó, Để khách trầm luân luống đợi chờ. Chùa Ông Núi Phù Cát Bài thơ đề vịnh cảnh “chùa hoang” - chùa Ông Núi, nơi thi sĩ từng đến viếng cảnh, ăn cơm chay và ngủ lại. Đến nơi đây, thi sĩ chạnh lòng trước qui luật thời gian, trước cảnh vật đổi sao dời, bày tỏ nỗi niềm bâng khuâng về giới hạn con người trước cõi Phật, đất trời, vũ trụ… Vào chặng đường sáng tác thứ nhất, tức trước khi xuất bản tập Gái quê 1936, Hàn Mặc Tử có nhiều bài thơ in đậm cảm quan Phật giáo, vừa gắn bó với cảnh chùa vừa bộc lộ suy tư trước Phật đài, cõi Phật và lẽ sắc sắc – không không nhà Phật. Hàn Mặc Tử từng đi du xuân, vãn cảnh và đề vịnh cảnh chùa theo phong cách truyền thống. Thi sĩ đến với cửa chùa trong tư cách người du ngoạn, bỡ ngỡ khám phá cảnh quan ngôi chùa tựa như cõi Thiên Thai bồng lai tiên cảnh và viết bài thơ đề vịnh liên hoàn gồm bốn khúc tứ tuyệt I Tức cảnh đề thi trước cửa chùa, Mỹ nhân năm ngoái lạc vào chùa. Quanh hồ cỏ mọc hoa sen vắng, Phưởng phất mùi hương ngọn gió đưa. II Gió đưa tiếng kệ thoảng bên tai, Đề vịnh tiêu dao trước Phật đài. Nét chữ đan thanh còn rỡ rỡ, Phong lưu gấp mấy bạn Thiên Thai. III Một năm tu đến một lần thôi, Một bữa cơm chay cũng khó coi. Một chén trà dâng chưa phải cách, Một câu mô Phật, một câu mời. IV Êm đềm mát mẻ khí ban mai, Đến Phật nghe câu sướng lỗ tai, Bảy bước thành thơ mau mắn lạ, Ra về tưởng lạc lối Thiên Thai. Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa Trong một bài thơ thất ngôn, với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử đã qui nạp và phán xét trường hợp một người được,/ bị xem là gái ế chồng nên phải đi tu, coi chuyện đi tu cũng là một lối giải thoát. Có thể xem đây như cách cảm nhận của kẻ trần tục, kẻ khác, người đứng bên lề Phật giáo mà cảm nhận, soát xét, qui kết chuyện tu hành qua một trường hợp giả định Đem cánh xuân tàn gởi cửa không, Hôm mai kinh kệ cũng thay chồng. Sạch miền tục lụy giòng khe chảy, Tàn khối chung tình tiếng mõ buông. Hương lửa ba sinh nguyền với Phật, Nước non một cảnh chứng cho lòng. Ngành dương tưới mát cành hoa héo, Nào bận trần ai chút bụi hồng. Gái ế chồng đi tu Bài thơ nhận được sự quan tâm, tán thưởng trong dư luận. Chỉ hai tuần sau đã có Hồ Thế Hiệp từ Đà Lạt gửi bài thơ họa và cũng cùng một cách cảm, cách nghĩ Từ bi hai chữ thiệt hay không? Có ế thì rao há chẳng chồng. Thóa cách tục trần theo giải cấm, Qui y cửa Phật bỏ nhà buôn. Bồ đề một chuỗi lần đòi bữa, Kinh kệ vài câu niệm thuộc lòng. Đầu trọc cũng vì chưng Nguyệt lão, Không xe nỏ chắp mối tơ hồng. Họa vận bài “Gái ế chồng đi tu” Hai năm sau, cùng trong một số báo, Hàn Mặc Tử có liền bốn bài thơ liên quan đến Phật giáo, chuyện tu hành và cảnh chùa. Thi sĩ lại có dịp bàn về chuyên đề nữ giới tu hành in đậm tư duy thế sự, con người thế sự, góc nhìn và thước đo thế sự phàm trần. Bài thứ nhất thiên về đoán định thân phận người phụ nữ ở chùa hơn là diễn tả tâm trạng chúng sinh nhập cuộc cảnh chùa Rừng thiền thấp thoáng dạng quần thoa, Khuê các mà ra đến nỗi à! Cuộc thế chưa chi mà vội chán, Trò đời mới đó đã lo xa. Lợt mùi son phấn say mùi đạo, Chán cảnh phiền ba mến cảnh chùa. Bà Nguyệt trớ trêu lòng dạ thiểm, Xuân xanh nỡ để thiệt thòi hoa! Gái ở chùa Theo Phan Cự Đệ, bài thơ này từng in trên Thực nghiệp dân báo ở Sài Gòn số ra ngày 11-10-1931, có sai khác tới 14 chữ … Điều đặc biệt là cùng trang trên số báo Công luận này lại đăng ngay bài họa của nhà chí sĩ Phan Bội Châu 1867-1940, ký bút hiệu Sào Nam, ghi rõ là “Họa nguyên vận” Bản lai không vết cậy gì thoa, Há gặp đâu thì cũng thế à! Một chữ đã đành thân gắn bó, Trăm năm phải tính cuộc gần xa. Tủi vì cái kiếp con không mẹ, Hổ cũng như ai sãi có chùa. Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật, Ngành dương mưa rưới vạn ngàn hoa! Thú vị hơn nữa là dưới nhan bài thơ Gái ở chùa của Hàn Mặc Tử có lời chú “Hai bài nầy chúng tôi đã đăng ở Thực nghiệp dân báo năm 1930. Rồi đây chúng tôi sẽ lần lượt tái đăng những bài xướng họa của cụ Sào Nam”. Cách duy danh “chúng tôi” ở đây hàm nghĩa đại diện cho cả Sào Nam Phan Bội Châu. Điều này xác định mối giao hảo thâm tinh giữa thi sĩ trẻ Hàn Mặc Tử với bậc chí sĩ - nhà thơ túc nho Sào Nam danh tiếng lẫy lừng, đồng thời cho biết cả hai bài thơ đều đã được in trên Thực nghiệp dân báo từ 5 năm trước. Vẫn chưa hết, ngay trên báo Công luận số này còn có thêm bài họa vần của nhà thơ chuyên Đường thi Quách Tấn 1910-1992 nổi tiếng Lược chẳng cài mà phấn chẳng thoa, Cửa không đành khép cánh xuân à! Gió thông đưa kệ mùi hương thoảng, Vóc liễu gầy sương bóng nhạn xa. Duyên nợ chồng con tràng chuối hột, Chuyện trò hôm sớm tiếng chuông chùa. Khuya sớm hương tâm nguyền với Phật, Đã tu thôi gắng tu cho trọn, Chớ để tòa sen bướm lộng hoa. Họa vận Ở bài thứ hai, Hàn Mặc Tử viết về cảnh chùa với tâm thức ngờ vực, nghi ngại và chiêm nghiệm về ngôi chùa như một sự tàn cuộc Chùa không sư tụng cảnh buồn teo, Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu? Réo rắt cành thông thay mõ đánh, Lập lòe bóng đóm thế đèn treo. Hương sầu khói lạnh nằm ngơ ngác, Vách chán đêm suông đứng dãi dầu. Rứa cũng trơ gan cùng tuế nguyệt, Bên thềm khắc khoải giọng quyên kêu. Chùa hoang Theo Phan Cự Đệ, bài này từng in trên Thực nghiệp dân báo ở Sài Gòn, số ra ngày 11-10-1931 … Nguyễn Bá Tín lại cung cấp một văn bản khác … Bài thơ này có chung nhan đề như Vũ Ngọc Phan đã dẫn nhưng khác hẳn về câu chữ. Ngay dưới bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử trên báo Công luận có liền hai bài họa. Thứ nhất là bài của Phan Bội Châu với nhan đề Cụ Sào Nam họa chắc do tòa soạn đặt Ba vạn giang sơn chút tẻo teo, Ai dò bể Phật đến nguồn đâu! Kệ thần mặc ý trong lòng niệm, Đèn tuệ tha hồ trước gió treo. Bờ nọ thuyền đưa dòng họ tới, Trời nầy mưa khóc cỏ cây rầu, Xưa nay Phật pháp vô biên lượng, Muôn nước ngàn non một tiếng kêu. Cụ Sào Nam họa Thứ hai là bài thơ với nhan đề Họa vận của Đoàn Tá, cuối bài có ký chú “Phan Thiết” sáng tác ở Phan Thiết? người Phan Thiết và sáng tác ở Phan Thiết? Quang cảnh chùa nầy ngó vắng teo, Hoang vu như thế bởi vì đâu? Nhà tăng thềm mốc ba căn trống, Tượng Phật tường rêu một bức treo. Đại xá cần chi đem lễ lạc, Âm phò xin chớ nệ hương dầu! Thập phương ai kẻ lòng từ thiện, Nỡ để quanh chùa tiếng dế kêu. Họa vận Truy tìm tiếp các nguồn tư liệu thì thấy bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử sau khi in trên Thực nghiệp dân báo 1931 và trước khi in trên Công luận 1935 còn được in trong mục Văn uyển trên báo Phụ nữ tân văn với bút danh “ Qui Nhơn” là viết tắt bút danh Phong Trần của Hàn Mặc Tử, trong đó có sự sai khác 8 chữ so với bài in Công luận Chùa không sư tụng cảnh buồn teo, Xác Phật còn đây chuỗi Phật đâu? Réo rắc cành thông thay tiếng kệ, Lập lòe bóng đóm thế đèn treo. Hương rầu khói lạnh nằm ngơ ngác, Vách chán đêm suông đứng dãi dầu. Thế cũng trơ gan cùng tuế nguyệt, Trước thềm khoắc khoải dọng quyên kêu. Chùa hoang Như vậy, riêng bài thơ Chùa hoang của Hàn Mặc Tử đã in trên ba tờ báo khác nhau cùng xuất bản ở Sài Gòn vào ba năm khác nhau 1931, 1932, 1935 và hai lần có in bài người họa 1931 Quách Tấn, 1935 Sào Nam, Đoàn Tá… Trong bài thứ ba, Hàn Mặc Tử tả thực, kể thực và nói thật chuyện ăn cơm chay ở một ngôi chùa cụ thể Ngọt ngon từng trải nếm chay chùa, Lạt lẽo dầu sao cũng gắng lua. Nhưng mới “và” sơ nghe đã ớn… Nước gì nếm thử thấy chua chua. Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi Đến bài thứ tư, bài cuối cùng trong chùm bài viết về cảnh chùa, Hàn Mặc Tử tiếp tục tả thực và diễn tả tâm thế thử nhập cuộc vào thế giới nhà Phật, rút cuộc vẫn tỉnh trơ trong cõi đời thường nhật Đặt mình xuống phản đã chiêm bao, Thế giới ba ngàn ngó lạ sao!... Bay thoảng mùi hương thơm ngạt mũi, Té ra cửa Phật có hoa đào!... Đêm ngủ trong chùa Ông Núi Trên thực tế, chùa Ông Núi là cách gọi Nôm của thiền tự Linh Phong thôn Phương Phi, xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Chùa có địa thế “Tọa sơn vọng hải”, tính đến nay đã có lịch sử trên ba trăm năm. Dấu tích chùa Ông Núi trải qua chiến tranh chống Mỹ khốc liệt chỉ còn lại hang Tổ nằm trên lưng chừng núi Chóp Vung. Chùa mới được xây dựng lại với qui mô lớn, trong đó có tượng Phật ngồi đúc xi măng cốt thép bề thế bậc nhất Đông Nam Á và đã được xếp hạng di tích Lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Với Hàn Mặc Tử, thi sĩ đã có riêng ba bài viết về chùa Ông Núi – Linh Phong, biểu cảm tiếng nói một người có cơ duyên với Phật giáo, chủ động hòa nhập với cuộc sống tu hành và gián cách rút ra bài học cần thiết về đức tin, lẽ sống, kinh nghiệm sống cho riêng mình. Trong một trường hợp khác, với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử có bài thơ Ngoạn cảnh chùa theo thể Đường luật bát cú in trên báo Sài Gòn số ra ngày 18-11-1935 Đề huề trăng gió đến Thiên Thai, Cảnh trí thần tiên bước lạc loài. Ngắm nghía non sông, vầng khói tỏa, Vạch vùng hoa cỏ, hạt sương rơi. Cây sum suê lá, chùa nương bóng, Suối láng lai dòng, khách rửa tai. Phàm tục đến đây nhờ Phật độ, Đừng vương vấn nữa nợ trần ai. Ngoạn cảnh chùa Ngay sau đó, cuối bài hát nói Ngoạn cảnh chùa in trên báo Sài Gòn, cũng với bút danh Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử có thêm ký chú “Đề tại chùa Ông Núi. Mùa hè năm 1930”. Có thể xác định bài thơ đã in đâu đó hoặc mấy năm sau mới đưa in trên báo Sài Gòn số ra ngày 28-11-1935 Khách trần rẽ lối Thiên Thai, Cỏ hoa lạ mặt tươi cười làm quen. Xinh thay phong cảnh rừng thiền, Bầu sen hương ngát cạnh đền suối reo. Nói Bích Khê động khẩu, ưng trường tại, Khách trần ai bước tới ngỡ non tiên. Thấy hoa cỏ lạ muốn làm quen, Lòng thấm thía mùi thiền như thoát tục. Thủy nhiễu môn tiền ba lộng nguyệt, Phong lai lâm hạ ảnh phiêu dương. Chuông tế độ thức tỉnh bạn văn chương, Bầu trăng gió dễ thường quên nhắm nhía. Im mát bóng đàm hoa phước địa, Phật Quan Âm rừng tía có linh thiêng. Xuống đây ngoạn cảnh thiên nhiên. Ngoạn cảnh chùa Có thể thấy cả hai tác phẩm sau này đều in đậm cảm quan Phật giáo nhưng đan xen trong đó là cảm xúc hòa hợp với môi trường thiên nhiên, cảnh sắc trời mây, núi non, cây cỏ. Hàn Mặc Tử hòa nhập với “lối Thiên Thai”, đất trời “cảnh trí thần tiên” và muốn kéo cả cõi Phật về thực tại phàm trần Phật Quan Âm rừng tía có linh thiêng./ Xuống đây ngoạn cảnh thiên nhiên… Có thể xác định và khẳng định tiến trình phát triển nguồn sáng tâm linh trong thơ Hàn Mặc Tử đã từ chỗ dung hòa đến nhấn mạnh, chuẩn hóa, linh hóa niềm tin Thiên Chúa. Có thể ghi nhận hiện tượng này như một sự lựa chọn đức tin của cá nhân Hàn Mặc Tử cũng như tương quan Phật giáo – Thiên Chúa giáo trong tổng thành đời sống tư tưởng tâm linh Hàn Mặc Tử. Ý kiến của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu về Hàn Mặc Tử Chế Lan Viên, Quách Tấn, Nguyễn Văn Xê, Trần Thanh Mại, Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Bá Tín, Yến Lan, Trần Thanh Địch, Hoàng Diệp, Nguyễn Minh Vỹ, Nguyễn Viết Lãm, Phạm Đán Bình, Phan Xuân Sanh, Nguyễn Tấn Long, Phan Cự Đệ, Võ Long Tê, Lê Huy Oanh, Phạm Đình Khiêm, Nguyễn Thị Tuyệt, Lê Tuyên, Bùi Tuân, Đặng Tiến, Thái Văn Kiểm, Trăng Thập Tự, Lê Văn Lân, Trần Cao Tường, Lê Đình Bảng, Vương Trí Nhàn, Đỗ Lai Thúy, Bích Thu,… đã cho thấy rõ điều này. Vào khoảng giữa năm 1941, Hoài Thanh - Hoài Chân đã lọc trong muôn một nẻo đường tư tưởng thơ Hàn Mạc Mặc Tử rồi đi đến xác quyết nội dung tâm linh tập thơ Xuân như ý trong tổng thành một sự nghiệp thi ca “Hàn Mạc Tử đã dựng riêng một ngôi đền để thờ Chúa. Thiếu lòng tin, tôi chỉ là một du khách bỡ ngỡ không thể cùng quỳ lạy với thi nhân. Nhưng lòng tôi có dửng dưng, trí tôi làm sao không ngợp vì cái vẻ huy hoàng, trang trọng, linh lung, huyền ảo của lâu đài kia? Có những câu thơ đẹp một cách lạ lùng, đọc lên như rưới vào hồn một nguồn sáng láng. Xuân như ý rõ ràng là tập thơ hay nhất của Hàn Mạc Tử. Với Hàn Mạc Tử Chúa gần lắm. Người đã tìm lại những rung cảm mạnh mẽ của các tín đồ đời Thượng cổ. Ta thấy phảng phất cái không khí Athalie. Cho nên mặc dầu thỉnh thoảng còn sót lại một hai dấu tích Phật giáo, chắc những người đồng đạo chẳng vì thế mà làm khó dễ chi với dị thảo của thi nhân. Hưống chi thơ Hàn Mạc Tử ra đời, điều ấy chứng minh rằng đạo Thiên Chúa ở xứ này đã tạo ra một cái không khí có thể kết tinh lại thành thơ. Tôi tin rằng chỉ những tình cảm có thể diễn ra thơ mới thiệt là những tình cảm đã thấm tận đáy hồn đoàn thể” . Một nhà phê bình nổi tiếng đương thời là Vũ Ngọc Phan cũng đánh giá cao tiếng thơ chí thành tụng ca đạo Gia Tô và khẳng định vị thế nguồn cảm hứng mới trong nền thơ triết học, thần học, tôn giáo, tâm linh hiện đại “Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho Hàn Mạc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ đồng trinh Marie và chúa Jésus bằng thơ trước nhất. Ông ca tụng đạo Gia Tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới… Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mạc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm, mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới” … Cho dù có người như nhà thơ Quách Tấn 1910-1992 nhiệt tình bênh vực, khẳng định cho một tâm thế Phật trong thơ Hàn Mặc Tử “Trong thơ Hàn Mạc Tử có nhiều bài ảnh hưởng cả hình thức lẫn tinh thần Phật giáo. Ví dụ bài Phan Thiết! Phan Thiết! Nhớ khi xưa ta là chim Phượng Hoàng Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất Bay từ Đao Ly đến trời Đâu suất! Ngoài những ngôn ngữ phổ thông của nhà Phật như “thành chánh quả”, “Sông Hằng”, ngoài những hình ảnh tươi đẹp của trời “Đao Ly”, trời “Đâu Suất” – những cõi Phật xa xăm đầy nhạc, đầy hương, đầy ánh sáng – “chúng ta nhận thấy trong bài Phan Thiết, thuyết nghiệp báo và thuyết luân hồi được thi vị hóa một cách tài tình... Tử đi tìm nơi giải thoát và đã tìm thấy Cực Lạc Quốc Độ của Phật A Di Đà... Những ánh sáng vô cùng, những “tiếng nhạc thiêng liêng dồn trỗi khắp hư linh”, những “điệu nhạc rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác”, “cây bằng gấm và lòng sông bằng ngọc” ở trong thơ Tử là vang bóng của vô lượng quang trên Thế Giới Cực Lạc mà Tử đã nhìn qua Kinh A Di Đà” … Và cho dù thêm một lần Trần Thị Huyền Trang phác ghi lại ký ức của Quách Tấn về câu chuyện nghĩa tình khói sương Hàn Mặc Tử - ni cô, hay là góp thêm một giai thoại về thơ Hàn “Ở chùa Liên Tôn thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, có một nữ tu nhan sắc kiều diễm thùy mị, tư chất quang minh, sở học không thua kém hàng nam nhi đương thời, xuất gia đầu Phật khi tuổi còn đôi tám. Nàng là cháu gái của vị sư cụ trụ trì trước đó thường gọi là thầy tú Liên Tôn thế danh Võ Trấp, 1891-1951; NHS thêm, được sư cụ thương chiều, thường cho phép cùng tiếp khách trí thức mà phần đông là chỗ bà con họ hàng đến viếng cảnh chùa, đàm đạo thơ văn. Nhà thơ Quách Tấn, cháu gọi nữ tu bằng cô họ xa, là một trong số các bậc trí thức đã cùng nàng tương kiến. Ngoài thời gian kinh kệ công phu, nữ tu chuyên tâm đọc sách. Nàng rất nhạy bén với các tên tuổi văn chương ở quê hương thời ấy như Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên… Song biết để biết thế thôi, cái khoảng cách nhất định giữa màu thiền và màu thế không cho phép nàng giao du rộng rãi với các nhà thơ trẻ cùng thời. Song có một lần, nàng chủ động đến gặp Hàn Mặc Tử. Những bài thơ tài hoa và phóng túng, những giai thoại lưu truyền trong vòng thân mật bạn bè và tính tình, tư chất và hoàn cảnh của nhà thơ trẻ tuổi tài cao này đã làm nữ tu chú ý. Tuy vậy, nàng chưa một lần tìm cơ hội tiếp xúc. Thế rồi một hôm nữ tu rời chùa Liên Tôn xuống Quy Nhơn, nàng tình cờ gặp nhà thơ Quách Tấn. Được biết Quách Tấn sắp vào thăm Hàn Mặc Tử, nữ tu xin cùng đi. Hàn Mặc Tử tiếp đón rất ân cần và đàm đạo với nữ tu về đạo Phật rất tương đắc. Khi nữ tu ra về, Hàn Mặc Tử nói riêng với nhà thơ Quách Tấn - Anh ạ, thật là một tấm lòng trong, thơm và rộng lớn. Từ đó, không một lần tái ngộ. Nhưng cuộc gặp gỡ và chuyện trò đặc biệt ấy đã để lại trong lòng Hàn Mặc Tử nhiều xúc động và những ấn tượng khó quên. Thi sĩ đã nhắc đến hai tiếng ni-cô với thái độ trang trọng và yêu kính xa xôi trong những vần thơ êm ả nhất của mình. Trong Huyền ảo, nhà thơ viết Mới lớn lên trăng đã thẹn thò Thơm như tình ái của ni cô Gió say lướt mướt trong màu sáng Hoa với tôi đều cảm động sơ. Và trong bài Cao hứng Thơ tôi thương huyền diệu Mọc lên đạo Từ Bi Tôi bắt chước Hy Di Ngủ một trăm ngày dậy… … Cho tôi hoa đền Ngự Cho tôi lòng ni cô Xuân trên má nàng thơ Ngon như tình mới cắn. Đó là những bài thơ phản chiếu tâm hồn Hàn Mặc Tử trong những lúc nguôi dịu bi thương, khi nỗi đau đớn của thể xác, nỗi bức bối đến điên cuồng của tinh thần tạm thời lắng xuống. Đó là lúc lòng chàng tựa vào kỷ niệm, tựa vào thơ và những ước ao trong sáng để tìm nguồn an ủi vô biên. Có lẽ khi trở về với giọt nước cành dương, người nữ tu có thêm một chút xót xa về con người hiện hữu, một tình thương đầy sự chia sẻ cụ thể đối với người thi sĩ tài hoa mệnh bạc Hàn Mặc Tử. Cùng tiếng kệ lời kinh, người nữ tu tựa vào số kiếp ấy, nguyện cầu cho thơ” … Trên thực tế kết quả sưu tập, phát hiện văn bản cũng như chính nội dung tác phẩm có thể thấy Hàn Mặc Tử đã thể hiện khá rõ cảm quan Phật giáo, bộc lộ sắc nét bản tính khoan dung, dung hợp mỹ cảm Phật giáo, khả năng tiếp nhận, chấp nhận, đan kết tư tưởng phương Đông và phương Tây, truyền thống và hiện đại … 3. Lời kết mở Rút cuộc, nhiều ít có thể chia xẻ ý kiến “Có một sự tranh chấp Hàn Mạc Tử giữa những tín đồ đạo Thiên Chúa và đạo Phật… Cũng một bài Tựa Xuân như ý cùng một số bài thơ như Ra đời, Điềm lạ, Xuân đầu tiên mà mỗi người giải thích một cách” … Tuy nhiên ở đây, theo tôi, cần đặc biệt nhấn mạnh việc xác định đặc điểm và tiến trình phát triển thiên hướng tôn giáo qua trường hợp Hàn Mặc Tử quyết không nhằm phân biệt, phân chia, định dạng sự hơn thua, cao thấp. Xét trong bản chất, khả năng dung hợp Phật giáo và sự lựa chọn niềm tin Thiên Chúa chỉ càng góp phần làm sáng lên phẩm chất nhân văn của Hàn Mặc Tử và thơ Hàn Mặc Tử. Hà Nội, tháng 7-2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xin xem Trần Quang Chu Sưu tầm và khảo cứu [2018], Thơ văn Hàn Mạc Tử. Nxb Văn học, Hà Nội, 668 trang. 2. Phan Cự Đệ [2002], Hàn Mặc Tử - Tác phẩm, phê bình và tưởng niệm. Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Hồ Thế Hiệp [1933], Họa vận bài “Gái ế chồng đi tu”. Công luận, số 6221, ra ngày 9-4. 4. Vũ Ngọc Phan [2000], Hàn Mạc Tử Nguyễn Trọng Trí. Nhà văn hiện đại, Tập 4. Tái bản. Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Hữu Sơn [2014], Thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận. Tạp chí Thơ, số 1+2. 6. Nguyễn Hữu Sơn 2017 Thơ mới những chuyện chưa bao giờ cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới. Nxb Văn học, Hà Nội. 7. Nguyễn Thanh Tâm [2014], Đọc “Có một vườn thơ đạo”. Nghiên cứu Văn học, số 10. 8. Quách Tấn [1935], Họa vận. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 9. Quách Tấn [1969], Ảnh hưởng đạo Phật trong thơ Hàn Mạc Tử. Tập san Niềm thương, Bộ mới Nha Trang, số 13-14.. 10. Hoài Thanh - Hoài Chân [1998], Thi nhân Việt Nam, 1932-1941. Tái bản. Nxb Văn học, Hà Nội. 11. Lệ Thanh [1933], Gái ế chồng đi tu. Công luận, số 2610, ra ngày 26+27-3. 12. Nguyễn Bá Tín [1991], Hàn Mặc Tử anh tôi. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 13. Nguyễn Bá Tín [1994], Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 14. Nguyễn Bá Tín [2015], Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nguồn 25 thg 5 15. Trần Thị Huyền Trang Sưu tầm và biên soạn [1991], Hàn Mặc Tử - Hương thơm và mật đắng. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 16. Hàn Mặc Tử [1935], Chùa hoang. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 17. Hàn Mặc Tử [1933], Ngày xuân đi chơi đề thơ ở chùa. Công luận, số 2587, ra ngày 26+27-2. 18. Hàn Mặc Tử [1935], Gái ở chùa. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 19. Hàn Mặc Tử [1932], Chùa hoang. Phụ nữ tân văn, số 122, ra ngày 10-3. 20. Hàn Mặc Tử [1935], Ăn cơm chay trong chùa Ông Núi. Công luận, số 6778, ra ngày 9-35. 21. Hàn Mặc Tử [1935], Đêm ngủ trong chùa Ông Núi. Công luận, số 6778, ra ngày 9-3. 22. Hàn Mặc Tử [1994], Chùa Ông núi Phù Cát. Dẫn theo Nguyễn Bá Tín Hàn Mặc Tử trong riêng tư. Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội… CÙNG MỘT TÁC GIẢ 1. Nguyễn Hữu Sơn [2012], Hàn Mặc Tử bàn về Thơ mới giữa đương thời Thơ mới. Tân Trào, số 327, ra kỳ 1-8-2012, 2. Nguyễn Hữu Sơn [2014], Thơ Hàn Mặc Tử trên báo Công luận. Tạp chí Thơ, số 1+2, 3. Nguyễn Hữu Sơn 2017 Thơ mới những chuyện chưa bao giờ cũ – Người đương thời Thơ mới bàn về tác gia Thơ mới. Nxb Văn học, Hà Nội. 4. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Thi sĩ Hàn Mặc Tử với Kar Marx. Tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 999, ra ngày 10-5-2018, Văn nghệ Hội Nhà văn VN, số 19, ra ngày 12-5-2018, 5. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Cảm quan Phật giáo trong sáng tác của Hàn Mặc Tử. Tạp chí Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ISSN 1859-0136, số 7 239, 6. Nguyễn Hữu Sơn 2018 Cảm quan Phật giáo trong thơ Hàn Mặc Tử. Tạp chí Kiến thức Ngày nay, số 1008, ra ngày 10-8,
Hàn Mặc Tử- Hồn thơ bí ẩn và phức tạp nhất trong phong trào Thơ Mới Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử lạ nhất, phức tạp nhất, bất hạnh nhất, bí ẩn nhất. Như ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời… Là sản phẩm của nguồn thơ điên bằng đau thương đặc biệt, Đây thôn Vĩ Dọ là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng. Bên dưới mỗi hàng chữ sáng tươi là cả một mối u hoài. Tuy không có những tiếng rên la, những hình ảnh kì dị, ma quái, nhưng mạch liên tưởng toàn bài cũng rất lạ lùng, đứt đoạn, phi logic, cóc nhảy ngoại cảnh – tâm cảnh, tươi sáng- âm u, hi vọng – thất vọng kết nối tương phản. Đó là hai phía của một khối u hoài uẩn khúc. Khổ đầu ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như lời mời mọc từ bên ngoài, hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa, khát khao, rạo rực. Khổ 2 ước mong khẩn thiết dâng lên hoá thành hoài vọng chới với, nghẹn ngào. Khổ 3 mong ngóng vừa ló rạng hoá thành nỗi hoài nghi. Liên tưởng điên – phi lôgic tạo ra âm hưởng nhất quán, vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Tất cả xuất phát từ tình yêu tuyệt vọng – mặc cảm sâu xa của Hàn Mặc tử. […] Trong bệnh tật, tâm hồn Hàn hình thành hai thế giới trong này và ngoài kia phân định nghiệt ngã, cách nhau bằng cả tầm tuyệt vọng. Ngoài kia là mùa xuân, thắm tươi, trăng, nhạc, ánh sáng, hạnh phúc, thiên đường, hi vọng,… Trong này chẳng có mùa, là đêm tối, địa ngục, khổ hạnh, âm u, mờ nhân ảnh, lãnh cung… trong này chỉ còn về lại được ngoài kia bằng ước ao thầm lén, khắc khoải hi vọng và tuyệt vọng mà thôi! Tấm thiệp của Hoàng Cúc đã đánh thức khát vọng về cái ngoài kia. Thôn Vĩ Dạ là địa chỉ khởi đầu của ngoài kia trong hồn Tử. Khát vọng về thăm Vĩ Dạ của Tử cũng là khát vọng về ngoài kia. Vườn xa, thuyền xa, đường xa hợp thành thế giới ngoài kia đối lập với ở đây — trong này. Sự tương phản giữa hai miền không gian không chỉ là mặc cảm của con người đang sắp chia lìa cuộc đời mà còn là mặc cảm của thi sĩ đang phải lìa xa cái đẹp mà anh đang tôn thờ, chiêm ngưỡng. Cái đẹp, theo quan niệm của Tử là thanh khiết, thanh tú, trinh nguyên, vẻ đẹp của vườn, nắng, trăng, thuyền, khách đường xa là biểu hiện cụ thể của vẻ đẹp ấy. Và mặc cảm chia lìa là mặc cảm tuyệt vọng khiến cho nó trở nên khắc khoải, da diết. Câu hỏi mở đầu là lời Tử phân thân để hỏi chính mình. Ba câu sau tả vườn. Nắng tinh khiết thanh tân lan toả trên những hàng cau, thân cau, lá cau, biến cả Vườn thành viên ngọc lớn. Vườn toả vào không gian những ánh xanh của ngọc thanh tú và cao sang. Chữ ai chuyển tải cảm giác xa xót, thực tại xa vời, tồn tại mong manh ở ngoài tầm với, thuộc thế giới ngoài kia. Từ quá chỉ mức độ, là tiếng kêu ngạc nhiên, ngỡ ngàng như chợt nhận ra vẻ đẹp của vườn trong khoảnh khắc hiếm hoi ấy. Mặt chữ điền là mặt người thôn Vĩ hay người trở về thôn Vĩ? Nếu là mặt người thôn Vĩ thì sẽ là mặt phụ nữ vì một người đàn ông thôn Vĩ trở về không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông. Nếu là mặt người trở về thôn Vĩ thì chỉ có thể là khuôn mặt của Tử tự họạ chân dung của mình đầy kiêu hãnh và vơ vào. Có thể hiểu cả hai cách như trên. Qua lăng kính chia lìa, tuyệt vọng tình yêu, những cảnh vật đơn sơ cũng trở nên vô cùng lộng lẫy. Đó là thiên đường trần gian nhưng không thuộc về mình nữa. Về thôn Vĩ là việc bình thường nhưng với Tử lại quá tầm tay với, thành hạnh phúc ngoài tầm tay. Khổ 2 không chỉ tả dòng sông Hương mà dòng sông nào đó thể hiện mặc cảm chia lìa, phiêu tán. Tất cả như đang bỏ đi, ngang trái trớ trêu. Chữ lay rất hay. Từ câu ca dao hiện về trong hồn Tử chăng? Ai về trồng dứa qua truông Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em! Hay là Lá ngô lay ở bờ sông, Bờ sông vẫn gió người không thấy về. Trúc Thông Sông trăng và thuyền trăng huyền ảo càng thêm huyền ảo. Nhưng đó cũng mới là vẻ đẹp bề nổi, dễ thấy. Chữ kịp mới mang bi kịch tâm hồn nhà thơ. Mặc cảm thân phận trong hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, từng ngày, từng khắc. Cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Mong mỏi, đau thương và tuyệt vọng. Khổ 3 khắc khoải hoá thân thành nhịp điệu. Gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn. Hình ảnh người con gái áo trắng tinh khiết được Tử tôn thờ là hiện thân của thế giới ngoài kia với sắc áo trắng nhoà nhạt đến mức nhìn không ra. Đến đây, Tử mới trở về nơi tồn tại của mình, với lãnh cung chia lìa bất hạnh của mình. Cuộc đời ngoài kia vẫn thắm sắc và vẫn cách ở đây một tầm tuyệt vọng, vẫn cách xa một tầm tay với. Chỉ có cái tình kia là sợi dây duy nhất níu Tử với trần gian. Mà xem ra cái tình ấy cũng mong manh làm sao! Xem thêm Soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ Ngữ văn 11
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của tác giả Hàn Mặc Tử là bức tranh toàn bích về cảnh vật và con người,là bức tranh đẹp về một miền quê đất nước, là tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người. Để giúp bạn hiểu rõ ràng và sâu sắc hơn về các dạng đề đọc hiểu liên quan đến bài thơ, cùng Đọc Tài Liệu tham khảo soạn bài Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc Tử cùng một số đề đọc hiểu dưới đây và xem gợi ý đáp án của từng đề bạn nhéĐề đọc hiểu Đây thôn Vĩ DạĐề số 1Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏiSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ điềnTrích Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc TửĐọc đoạn thơ trên và trả lời các câu hỏi sauCâu 1 Giới thiệu đôi nét về tác giảCâu 2 Giải thích ý nghĩa câu hỏi mở đầu bài thơ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.Câu 3 Xác định phép điệp trong đoạn thơ và nêu hiệu quả nghệ thuật mà nó mang 4 Cảm nhận về tình cảm của nhà thơ với mảnh đất và con người thôn VĩĐáp án đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ số 1Câu 1- Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22-9-1912 trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa ở Lệ Mĩ, Đồng Hới, sau chuyển vào sống ở Quy Hàn Mặc Tử làm thơ từ năm mười sáu tuổi, với nhiều bút danh - Minh Duệ Thi, Phong Trần, Lệ Thanh, Hàn Mặc Tử, Hàn Mạc Tử...- Sự nghiệp thơ ông tuy không thật đồ sộ nhưng đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong tâm trí người Việt yêu 2 “Sao anh không về chơi thôn Vĩ? là một câu hỏi tu từ mang nhiều ý Ý nghĩa biểu đạt Sao anh không về chơi thôn Vĩ? vừa là câu hỏi vừa là lời mời gọi tha thiết của cô gái thôn Vĩ với nhân vật trữ Ý nghĩa biểu cảmGợi cảm giác như lời trách nhẹ nhàng và cũng là lời mời gọi tha thiết lời nhà thơ tự trách, tự hỏi mình; lời ƣớc ao thầm kín của người đi xa được về lại thôn Vĩ.Hai tiếng về chơi bộc lộ sắc thái tự nhiên, thân mật, chân hỏi là duyên cớ để khơi dậy trong tâm hồn nhà thơ bao kỉ niệm sâu sắc, bao hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu của xứ Huế, trước hết là Vĩ Dạ - nơi có người mà nhà thơ thương mến và đẹp nhất là cảnh thôn Vĩ trong ánh bình 3 Điệp từ “Nắng”- Như một tiếng ngân khiến không gian tràn đầy ánh sáng. Nắng ở đây là nắng mới, thứ nắng ban mai, tinh khiết đầu tiên trong ngày trên những thân cau còn ướt đẫm sương Hiệu quả nghệ thuật Điệp từ nắng cùng cụm hình ảnh tiểu đối nắng hàng cau - nắng mới lên khiến ta cảm giác ánh sáng như đang đầy dần trong khu vườn thôn Vĩ không gian 4 Tình cảm của nhà thơ với mảnh đất và con người thôn Vĩ- 4 câu thơ đã đặc tả vẻ đẹp của phong cảnh và con người xứ Huế sinh động tràn đầy sức sống, cảnh thì đẹp dáng, đẹp màu, người thì đẹp lòng, đẹp Lời thơ tha thiết chứa đựng cả 1 tình yêu, 1 niềm khao khát. Có lẽ nhà thơ hiểu rất rõ hoàn cảnh thực tại đầy đau đớn của mình, hiểu rằng cảnh và người thôn Vĩ mãi mãi chỉ là trong mộng mà Tuy nhiên, buồn mà không tuyệt vọng, đau khổ mà vẫn ước mơ, hồn thơ dạt dào sức sống ấy chỉ hồi tưởng 1 cuộc gặp gỡ trong tâm linh mà niềm vui như thấm vào đường nét của cảnh vật, nghe như có tiếng thì thầm reo vui của cuộc hội ngộ đích thực trong hiện thể bạn quan tâm Phân tích khổ 1 Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc TửĐề số 2Đọc đoạn trích và trả lời câu hỏiGió theo lối gió, mây đường mây,Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,Có chở trăng về kịp tối nay?Trích Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc TửCâu 1 Đoạn trích trên được trích từ bài thơ nào? Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài 2 Nêu đại ý của đoạn 3 Giải thích ý nghĩa câu thơ "Gió theo lối gió, mây đường mây,"Câu 4 Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích là gì? Nêu tác dụng của biện pháp tu từ án đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ số 2Câu 1 Đoạn trích trên được trích từ bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Hoàn cảnh sáng tác Đây thôn Vĩ Dạ là một trong số ít những bài thơ hay nhất viết về Huế, về Vĩ Dạ. Tác phẩm ban đầu có tên Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ 2 Đại ý của đoạn trích bức tranh thiên nhiên xứ Huế bình yên, thơ mộng và niềm đau cô lẻ, chia 3 Ý nghĩa câu thơ "Gió theo lối gió, mây đường mây,"- Ý nghĩa biểu đạt tả thực vẻ êm đềm, nhịp điệu khoan thai của xứ Huế gió mây nhè nhẹ bay đi.- Ý nghĩa biểu cảm nhịp thơ 4/3 và sự vận động ngƣợc chiều của hình ảnh thơ gió, mây gợi sự chia li, tan tác, để lại sự trống vắng của không gian, gợi tâm trạng u buồn, cô đơn của nhà 4- Biện pháp tu từ được sử dụng trong hình ảnh dòng nước buồn thiu nhân Tác dụng miêu tả sinh động hình ảnh dòng nƣớc chảy lững lờ, nhưng dường như thiên nhiên cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng con người. Hình ảnh đẹp nhưng cũng thật lạnh lẽo, phảng phất nỗi buồn, nỗi cô quạnh trong lòng thi số 3Đọc đoạn trích dưới đây và trả lời câu hỏiMơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không ra...Ở đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?Trích Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mạc TửCâu 1 Đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Nêu xuất xứ của tác 2 Đại ý của đoạn trích là gì?Câu 3 Cách sử dụng điệp ngữ của tác giả trong câu thơ "Mơ khách đường xa, khách đường xa" gợi lên hình ảnh gì?Câu 4 "Ở đây" có thể được hiểu theo những cách suy nghĩ nào?Đáp án đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ số 3Câu 1 Đoạn trích trên được trích trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử- Xuất xứ của tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ ban đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ, sáng tác năm 1938, in trong tập Thơ Điên sau tập thơ này đổi tên thành Đau thương.Câu 2 Đại ý đoạn trích nỗi niềm thôn Vĩ của nhân vật trữ 3- Điệp ngữ khách đường xa khiến hình ảnh khách người thôn Vĩ trong mộng tưởng mơ càng xa vời. Lúc này Hàn Mặc Tử đang điều trị ở Qui Nhơn còn người thôn Vĩ hẳn nhiên ở xa vời trước hết được gợi lên bởi khoảng cách của thời gian quá khứ - hiện tại và không gian thôn Vĩ xứ Huế - nơi Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh ở Qui Nhơn.Sự xa vời còn được tạo nên bởi khoảng cách giữa tình yêu trong quá khứ chưa một lời ước hẹn với hiện tại Hàn Mặc Tử đang mắc bệnh hiểm nghèo và tương lai mờ Từ mơ đứng đầu câu thơ kết hợp với các hình ảnh áo em trắng quá, sương khói mờ nhân ảnh mang lại cho lời thơ vẻ đẹp huyền ảo, hư hoặc, làm nhòa mờ hình ảnh em, cô gái thôn Vĩ mà nhà thơ đang cố mơ 4 "Ở đây" có thể được hiểu theo những cách suy nghĩ là- Ở đây có thể là ở thôn Vĩ, khi Hàn Mặc Tử nhìn bức bƣu ảnh nhƣng cũng có thể là ở Qui Nhơn, nơi Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh Có thể hiểu câu thơ theo hai nghĩaVề nghĩa thực Xứ Huế nắng nhiều, mưa nhiều cũng nhiều sương khói, sương khói làm tăng thêm vẻ hư ảo, mộng mơ của Huế nhƣng sƣơng khói đều màu trắng, áo em cũng màu trắng thì chỉ thấy bóng người thấp thoáng, mờ nghĩa bóng Cái sương khói làm mờ cả bóng người ấy phải chăng tượng trưng cho cái huyền hoặc của cuộc đời đang làm cho tình người trở nên khó hiểu, xa vời?Gợi ý thêm cho bạnPhân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc TửSơ đồ tư duy Đây thôn Vĩ Dạ-Trên đây là một số đề đọc hiểu Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mạc Tử mà Đọc tài liệu đã sưu tầm được, mong rằng sẽ giúp ích cho các em trong quá trình ôn tập tại nhà!
Đọc văn§©y thnVÜ D¹- Hàn Mặc Tử-Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảNhóm 1Tìm hiểu về cuộc đời củaHàn Mặc Tử?Nhóm 2Tìm hiểu về sự nghiệp vănhọc của Hàn Mặc Tử?Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảCuộc đờiTên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 – 1940Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện PhongLộc, tỉnh Đồng HớiSố phận đau thương và bất hạnhSựnghiệpvănhọcMộ Hàn Mặc TửĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giảCuộc đờiTên thật Nguyễn Trọng Trí 1912 – 1940Quê làng Mĩ Lệ, tổng Võ Xá, huyện PhongLộc, tỉnh Đồng HớiSố phận đau thương và bất hạnhNhà thơ lạ nhất trong phong trào Thơ thơ tài hoa, có sức sáng tạo mạnh thơ mãnh liệt nhưng luôn quằn quại vàđau đớnTác phẩm chính SGKĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứ rút từ tập Thơ điên 1938b. Hoàn cảnh ra đờiBài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn MặcTử với một cô gái quê Vĩ Thị Kim CúcĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩmCâu hỏi trắc nghiệmDòng nào dưới đây nhậnxét đúng về âm điệu bài thơ?Trầm hùng, bi phẫn, trang trọnga. Xuất xứb. Hoàn cảnh ra đờic. ĐọcHào hùng, khoan thai, dõngdạcNhẹ nhàng, da diết, khắckhoảiChậm, buồn, ảo não, nghẹnngàoĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứb. Hoàn cảnh ra đờic. ĐọcNhẹ nhàng, da diết,khắc khoảiSao anh không về chơi thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ theo lối gió, mây đường mâyDòng nước buồn thiu hoa bắp layThuyền ai đậu bến sông trăng đóCó chở trăng về kịp tối nay?Mơ khách đường xa, khách đường xaÁo em trắng quá nhìn không raỞ đây sương khói mờ nhân ảnhAi biết tình ai có đậm đà?Đau thương, NXB Hội Nhà vănĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử hiểu giả2. Tác phẩma. Xuất xứCâu hỏi trắc nghiệmĐề tài của bài thơ làTình yêu quê hương đất nướcb. Hoàn cảnh ra đờic. Đọcd. Đề tàiTình yêu thiên nhiênTình yêu lứa đôiÝ kiến khácĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Sao anh không về chơi thôn Vĩ?Hình thứcChủ thểCâu hỏi tu từNgười con gái xứ HuếHàn Mặc TửGiãi bàyMời mọcKhát khao, hi vọngTrách cứ nhẹ nhàngNuối tiếc, bất lựcTình yêu tha thiết với cuộc đời,Thấp thoáng một chút đau ảnh con người Nhóm 3Con người thôn Vĩ được táihiện qua những hình nào?Cảm nhận về vẻ đẹp conngười xứ Huế qua những hìnhảnh đó?Cảnh vườn thôn Vĩ Nhóm 1Cảnh vườn thôn Vĩ được miêu tả quanhững hình ảnh nào? Cảm nhận củaanh chị về cảnh vườn tược thôn VĩDạ?Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lênVườn ai mướtquáKhổ1 xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ ra những đặc sắc nghệthuật được tác giả sử dụng đểtái hiện lại bức tranh thôn Vĩ?Nghệ thuật Nhóm 2Cảnh vườn thôn Vĩ Hoà quyện,quấn quít“Xanh như ngọc” thuần khiết, quý giá nhưmột viên ngọc. Trong sáng, lung linh,Đằngtràn đầy sức sốngKhổ 1saubức tranhthôn Vĩ, emcảm nhậnđiều gì vềtâm trạngcủa nhà thơ?Điệp từ “nắng” nắng trànngập, nắng chan chứa, khuvườn bừng lên trong từ “mướt” non tơ, nõn nàSo sánh “Xanh như ngọc” tô đậm vẻ đẹp nõn nà, thuầnkhiết của cây thuậtTâm trạng của nhà thơ“Lá trúc che ngang” duyên dáng, e lệ, kínđáo,“Mặt chữ điền” phúc hậu, trangtrọng, quý mới lên nắng sớm, nhẹ, trong, tươi tắn- Niềm vui, ngưỡng mộ, rạo rực, đắm sayHình ảnh con ngườiNắng hàng cau tinh khôi, tinh khiết, long lanhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Nhìn nắng hàng cau nắng mới lênVườn ai mướt quá xanh như ngọcLá trúc che ngang mặt chữ vườn thôn Vĩ Hoà quyện,quấn quíttràn đầy sức sốngKhổ 1Điệp từ “nắng” nắng trànngập, nắng chan chứa, khuvườn bừng lên trong từ “mướt” non tơ, nõn nàSo sánh “Xanh như ngọc” tô đậm vẻ đẹp nõn nà, thuầnkhiết của cây thuậtcủa nhàTâmtrạngtrạng củathơnhàthơTâm“Xanh như ngọc” thuần khiết, quý giá nhưmột viên ngọc. Trong sáng, lung linh,- Niềm vui, ngưỡng mộ, rạo rực, đắm say“Lá trúc che ngang” duyên dáng, e lệ, kínđáo,“Mặt chữ điền” phúc hậu, trangtrọng, quý mới lên nắng sớm, nhẹ, trong, tươi tắn- Phảng phất chút ngậm ngùi,nuối tiếc, nhớ ảnh con ngườiNắng hàng cau tinh khôi, tinh khiết, long lanhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản1. Khổ 1Tiểu kếtBức tranh xứ Huế trong buổi bình minh vừa mượtmà, óng ả, vừa đằm thắm, thơ mộng. Cảnh vật đượctái hiện bằng tình yêu, bằng hoài niệm với xứ Huếcủa nhà tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 1 Tiếng nói nội tâm trong câu hỏi “Sao anh không về chơithôn Vĩ” không mang sắc thái cảm xúc nào?Mời mọcTrách mócBăn khoănKhát khaoBài tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 2 Câu thơ nào trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn MặcTử gợi vẻ đẹp nên thơ, hài hoà giữa thiên nhiên và con người thôn Vĩ?Nhìn nắng hàng cau nắng mới trúc che ngang mặt chữ điềnVườn ai mướt quá xanh như ngọcSao anh không về chơi thôn Vĩ?Bài tập củng cốCâu hỏi trắc nghiệmCâu 3 Những hình ảnh sử dụng trong khổ thơ có đặc điểmGiản dị, gần gũi, đậm chất dân sức gợi, mang màu sắc tượng trưngTrang trọng, hàm súc, mang đậm màu sắc cổ điểnTáo bạo, hiện đại, tạo cảm giác mạnhĐây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bản2. Khổ 2Thảo luận nhómNhóm 1Nhóm 2Nhóm 3Cảnh xứ Huế trongbuổi chiều được táihiện như thế nào?Nhận xét về bứctranh thiên nhiên?Cảm nhận về bứctranh thiên nhiêntrong đêm trăng?Bức tranh ấy đemđến cho em ấntượng gì về xứHuế?Đằng sau bức tranhthiên nhiên xứ Huếtrong khổ 2, emcảm nhận gì về tâmtrạng của nhà thơ?Đây thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc TửII. Đọc hiểu văn bảnKhổ 2- Cảnh thiên nhiên trong buổichiều~ Gió >< mây chia lìa, xa cách~ Dòng nước buồn thiu Ảm đạm, nhuốm màu thiên nhiên trong đêm trăng~ Sông trăng lộng lẫy, thơ mộng~ Thuyền ai Ngỡ ngàng, bângkhuâng. Thơ mộng, lãng trạng ~ Nỗi buồn hiu hắt, mang dự cảm hạnh phúc chia lìa.~ Khắc khoải, lo âu, hồ nghi, thất vọng
Ai đã một lần đến Quy Nhơn chắc chắn sẽ không thể không đến thăm nơi an nghỉ cuối cùng của nhà thơ Hàn Mặc Tử, nhắc đến Hàn Mặc Tử tất phải nói đến thành phố Quy Nhơn là nơi ông đã sống thời niên thiếu vui tươi và thời đau khổ nhất về cuối cuộc thiệu đôi nét về cuộc đời và những người bạn tình của nhà thơ Hàn Mặc TửAi đã một lần đến Quy Nhơn chắc chắn sẽ không thể không đến thăm nơi an nghỉ cuối cùng của nhà thơ Hàn Mặc Tử, nhắc đến Hàn Mặc Tử tất phải nói đến thành phố Quy Nhơn là nơi ông đã sống thời niên thiếu vui tươi và thời đau khổ nhất về cuối cuộc Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh Francois, sinh ngày 22/9/1912 tại Đồng Hới, Quảng Bình. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất tại Bình Định. Tổ tiên Hàn Mặc Tử gốc họ Phạm ở Thanh Hóa, ông cố là Phạm Chương vì liên quan quốc sự gia đình bị truy nã nên người con trai Phạm Bồi phải di chuyển vào Thừa Thiên-Huế đổi họ Nguyễn theo mẫu tánh; sinh ra ông Nguyễn Văn Toản, ông Toản lấy vợ là Nguyễn Thị Duy con của cụ Nguyễn Long, ngự y có danh vào thời vua Tự Đức, sinh hạ được 8 người con 1-Nguyễn Bá Nhân tức nhà thơ Mộng Châu cũng là người dìu dắt Hàn Mặc Tử trên con đường thơ văn, 2-Nguyễn Thị Như Lễ, 3-Nguyễn Thị Như Nghĩa, 4-Nguyễn Trọng Trí tức nhà thơ Hàn Mặc tử, 4-Nguyễn Bá Tín người dời mộ Hàn Mặc Tử từ Quy Hòa về Ghềnh Ráng vào ngày 13-2-1959, 6-Nguyễn Bá Hiếu, 7-Nguyễn Văn Hiền và 8-Nguyễn Văn cha Hàn Mặc Tử lúc đó làm chủ sự thương chánh thường đi công cán nhiều nơi, chịu ảnh hưởng bởi nghề nghiệp của cha nên Hàn Mặc Tử cũng theo gia đình đi nhiều nơi từ lúc nhỏ. 1920 di chuyển theo gia đình học tiểu học Sa Kỳ; 1921-1923 học Quy Nhơn, Bồng sơn; 1924 chuyển Sa Kỳ; 1926 thân sinh Hàn Mặc Tử bị bệnh rồi mất tại Huế vì điều kiện đó mẹ Hàn Mặc Tử đưa các con vào Quy Nhơn để lập 1927 bài thơ đầu tiên của Hàn Mặc Tử được ra đời “Vội vàng chi lắm” họa lại của nhà thơ Mộng Châu; 1928 ra Huế học Trường Trung học Pellerin; 1930 thôi học về Quy Nhơn, đạt giải nhất thơ trong cuộc thithơ Thi xã tổ chức; 1931 thơ văn nổi danh với bút hiệu Phong Trần được cụ Phan Bội Châu chủ nhân Thi xã Mộng Du họa thơ và đề cao; được hội nhà Tây Du giới thiệu du học nước ngoài, nhưng vì bọn mật thám biết Hàn Mặc Tử có liên lạc với cụ Phan Bội Châu nên đã gạch tên trong danh sách du 1932 bước vào đời làm việc đầu tiên ở Sở Đạc điền Quy Nhơn và cũng năm ấy người yêu đầu tiên là Hoàng Thị Kim Cúc-người gốc Huế sinh năm 1913 vì Hàn Mặc Tử tính tình nhút nhát rụt rè nên chỉ dám bày tỏ tình yêu qua thơ. Kim Cúc bị tai nạn giao thông tại thành phố Hồ Chí Minh nganỳ 11/8/1988, nằm bệnh viện Chợ Rẫy 12 ngày đêm, đưa về Huế và mất vào ngày 3/2/1989. Có thể nói đám tang của bà lớn nhất ở Huế từ xưa tới nay bởi vì bà là Phó ban hướng dẫn Trung ương gia đình Phật tử Việt 1935 vào Sài Gòn làm báo, cộng tác trang văn thơ báo Công Luận và Tân thời, yêu người thứ hai là Mộng Cầm-người gốc Quảng Ngãi, sinh năm 1917 khi đó đang sống ở Phan Thiết; những năm làm báo ở Sài Gòn Hàn Mặc Tử thường ra Phan Thiết và đi chơi cùng Mộng Cầm ở Mũi Né cách thành phố Phan Thiết 22 km về hướng đông. Cuối năm 1936, Hàn Mặc Tử thấy mình có bệnh nhưng chưa xác định là bệnh phong nên chia tay Mộng Cầm trở về Quy Nhơn chữa trị. Hiện nay Mộng Cầm còn sống ở tuổi 89 1917-2006 với một người con gái ở Bình Chánh-TP. Hồ Chí Minh và người con gái ở Phan 1936 Hàn Mặc Tử ra tập thơ “Gái quê”; 1937 Mai Đình-người gốc Thanh Hóa, sinh năm 1919 đọc tập thơ Gái quê và đem lòng yêu người; năm 1939 trong lúc Hàn Mặc Tử bệnh tật, Mai Đình có ra Quy Nhơ thăm nuôi. Năm 1940 Hàn Mặc Tử mất và năm 1941Mai Đình lại ra Quy Nhơn thăm mộ Hàn Mặc Tử lần đầu, đến năm 1995 ra Quy Nhơn thăm mộ Hàn Mặc Tử lần cuối cùng. Bà ra tập thơ “Đôi hồn” họa các bài thơ của Hàn Mặc Tử, Mai Đình mất năm 1999 tại TP. Hồ Chí Minh, thọ 80 tuổi. Cùng thời gian này Hàn Mặc Tử còn quen Ngọc Sương-người Quảng Ngãi, sinh năm 1914 là dì ruột của Mộng Cầm và chị ruột của nhà thơ Bích Khê, mất năm 2002 tại TP. Hồ Chí Minh, thọ 89 tuổi. Tuy nhiên hai mối tình Mai Đình và Ngọc Sương không đi sâu vào lòng Hàn Mặc Tử như Mộng cuối đời, bệnh tình Hàn Mặc Tử ngày càng nặng, những người yêu chia xa, Hàn Mặc Tử bị đau khổ về mặt tinh thần lẫn thể xác; vì vậy nhà văn Trần Thanh Địch muốn an ủi bạn mình lúc đau khổ bằng cách giới thiệu cho Hàn Mặc Tử một người yêu thơ Hàn có tên là Trần Thương Thương-người Huế, sinh năm 1924, cháu gọi Trần Thanh Địch bằng chú ruột. Những bức thư tình của Trần Thương Thương gửi Hàn Mặc Tử hoàn toàn do Trần Thanh Địch tự phác họa ra lamg Hàn Mặc Tử cứ ngỡ mình đang có người yêu thực sự. Từ đó khoái cảm về mặt tinh thần mà sáng tác ra những vần thơ nổi tiếng là Cẩm Châu Duyên và kịch Quần Tiên 20/9/1940 bệnh tình Hàn Mặc Tử ngày càng nặng, vì vậy người anh rể, chồng chị Nguyễn Thị Như Lễ lúc đó làm y tá bệnh viện Quy Nhơn đưa vào Bệnh viện Phong Quy Hòa. Sau 52 ngày đêm chữa trị thì qua đời vào ngày 11/11/1940. Khi Hàn Mặc Tử mất không được gặp những người thân, chỉ có các soeur, các bác sĩ và một người anh em đồng bệnh là Nguyễn Văn Xê chăm sóc và an táng tại Quy Hòa. Trong những năm tháng cuối đời Hàn Mặc Tử có sáng tác một bài văn xuôi “Sự trong sạch tâm hồn” bằng tiếng Pháp, đó là bài thơ cuối cùng của nhà thơ để cảm tạ những vị đã chăm sóc và chữa trị ông tại Quy tưởng nhớ một nhà thơ lớn của Việt Nam, nơi an táng đầu tiên tại Quy Hòa, hiện nay được ca sĩ Nhật Trường tức nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và một số văn nghệ sĩ TP. Hồ Chí Minh dựng đài tưởng niệm với hình tượng là cây viết và quyển sách để thương tiếc, tưởng nhớ nhà thơ tài danh bạc mệnh Hàn Mặc Tử. Đồng thời tại phòng nằm chữa trị tại Quy Hòa của Hàn Mặc Tử nay cũng được làm phòng lưu niệm nhà thơ. Năm 1959, bạn thân của Hàn Mặc Tử là nhà thơ Quách Tấn cùng gia đình Hàn Mặc Tử cải táng mộ về Ghềnh Ráng-Quy Nhơn. Ngôi mộ Hàn Mặc Tử hiện nay đang nằm trên đỉnh cao Ghềnh Ráng, chung quanh núi non hùng vĩ, biển trời xanh ngát xa xa nhìn về TP. Quy Nhơn chạy dài theo bãi cát vàng giữa trăm ngàn màu thủy thọ thật thích hợp với hồn thơ. Hàn Mặc Tử ra đi ở lứa tuổi thanh xuân 28 tuổi, nửa đời người chưa qua hết nhưng ông đã làm tròn sứ mệnh của mình là để lại cho nền văn học Việt Nam chúng ta một đời thơ rất giá trị, có những bài được đưa vào chương trình văn học như “Đây thôn Vỹ Dạ”, “Mùa xuân chín”…Tóm tắt tiểu sử Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912 tại Lệ Mỹ, Đồng Hới. • Thuở nhỏ ông học trung học ở Huế 1928-1930, làm viên chức sở đạc điền ở Quy Nhơn 1932-1933, vào Sài Gòn làm báo rồi lại trở về Quy Nhơn 1934-1935. • Ông mắc bệnh phong từ năm 1937, phải vào nhà thương Quy Hòa tháng 9 năm 1940, và rồi mất ở đấy ngày 11 tháng 11 năm 1940. • Hàn Mặc Tử bắt đầu làm thơ rất sớm với thể thơ Đường luật và bút danh Minh Duệ thị, Phong Trần; nổi tiếng vì được cụ Phan Bội Châu họa thơ và đề cao. Từ năm 1935 ông đổi bút hiệu thành Lệ Thanh, rồi Hàn Mạc Tử, và cuối cùng Hàn Mặc Tử. • Tác phẩm tiêu biểu các tập thơ Gái Quê 1936, tập thơ duy nhất được xuất bản trong sinh thời tác giả, Thơ Điên hay Đau Thương, Thượng Thanh Khí, Cẩm Châu Duyên, Chơi Giữa Mùa Trăng… Hàn Mặc Tử đem đến cho Thơ Mới một phong cách độc đáo và sáng tạo bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí, thậm chí đến điên loạn, phản ảnh trực tiếp các cơn bệnh đau đớn dày danh Hàn Mạc TửNguyễn Trọng Trí làm thơ từ năm mười sáu tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936, khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại đổi thành Hàn Mặc Tử. “Hàn Mạc Tử” nghĩa là chàng trai đứng sau bức rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm mặt trăng khuyết vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn vật. “Mặt trăng khuyết” đã được “đặt vào” chữ “Mạc” thành ra chữ “Mặc”. Hàn Mặc Tử có nghĩa là “chàng bút nghiên”.Những người tình của thi sĩ Hàn Mặc Tử28 năm với một cuộc đời thi sĩ quá ngắn ngủi nhưng 70 năm vẫn mới một hồn thơ thì không phải thi sĩ nào cũng được cuộc đời ưu ái đến thế. Hàn Mặc Tử ra đi khi còn quá trẻ, để lại những bí mật cuộc đời mãi về sau vẫn là những dấu phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một trong những câu hỏi Những nàng thơ của chàng đã đi đâu về đâu trong suốt mấy chục năm đầu một thuở biết sầu vì ThuNói đến các nàng thơ của Hàn Mặc Tử, người ta thường nghĩ đến những Mộng Cầm, Thương Thương, Mai Đình, Ngọc Sương hay Hoàng Cúc. Nhưng thực ra những người đó không phải là hình bóng đầu tiên bước vào thơ chàng. Mà là một người con gái Huế có cái tên rất mộc mạc Trà. Mãi sau này khi Hàn Mặc Tử qua đời, ông Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ kể lại toàn bộ câu chuyện về những bóng hồng đầu tiên của anh trai mình trong một tập hồi tên Trà vì sinh ở Trà Kiệu, tên nhà trường là Thu Yến, con gái út ông cậu họ, anh của mẹ thi sỹ Hàn Mặc Tử, nhà ở phường Đúc Huế.Điều trở ngại lớn nhất là Hàn Mặc Tử phải gọi nàng bằng Tín đã viết “Lần đầu gặp chị Trà, anh Trí hơi nghễnh ngãng, lại bị con đò Gia Hội che lấp cái khôn đi, nên không để ý đến ai cả. Mấy lần có dịp chuyện trò, một người chị, tên Phu cho biết là bà con, nhưng chị Phu vốn thích “xe tơ kết tóc” cho nhiều lứa đôi nên chị thêm rằng “Bà con cũng như với nhà dì Thị vậy”ý nói có thể kết hôn được, không trở ngại tình bà con.Anh Trí thì không thông thạo lễ nghĩa bà con, phải xưng hô thế nào cho đúng. Cho nên mỗi lần gặp chị Trà thì ấp a ấp úng không biết nên gọi bằng chị hay nói thế nào cho phải cách. Vì chị còn nhỏ tuổi. Mà chị Trà tự xét còn nhỏ tuổi nên gọi anh bằng anh một cách tự nhiên thân tình. Thế thì, anh đắn đo, có nên gọi chị bằng em không? Khó cho anh quá!”Sự giao thiệp vì thế mất tự nhiên, trở thành lạt lẽo. Nàng vẫn dịu hiền không tỏ vẻ gì khó chịu. Nàng tự nhiên bắt chuyện rằng có gặp chàng bên tòa báo Đức Mẹ làm chàng hơi hoảng vì cái tính rụt rè mắc cỡ nên chàng không nhớ ra, vả lại ở chỗ đông người, chàng không dám nhìn ai kỹ, nhất là người cũng rất thích văn và cũng đã từng viết báo. Các tác phẩm của nàng thường viết về thiếu nhi, đạo binh Đức Mẹ. Biết chàng thơ phú tài hoa vậy, nàng xấu hổ không dám nhắc với chàng, nên mãi về sau chàng mới biết có cô trưởng đoàn thiếu nhi, thường ký tên trên mặt báo. Nàng chỉ được ba mẹ cho học xong bậc tiểu học, không cho học thêm, vì đơn giản, nàng là con gái đẹp, ngoan hiền tử tế nên rất nhiều nơi đã dạm ướm, mà tiếp xúc nhiều bạn bè ở trường, có thể bị mang tiếng cho gia đình đạo đó, nàng ở nhà đi học nữ công, thỉnh thoảng đến giúp việc xếp báo, gửi báo cho tòa soạn Báo Đức con gái tên Trà là mối tình yên lặng nhất của Hàn Mặc Tử, đến đỗi nhiều lúc chịu không nổi, chàng cũng có úp mở với em trai mình cho vơi đi nỗi thương nhớ. “Dù cái răng khểnh của anh vẫn cứ tỏ vẻ “khách quan” nhưng cái cười đó không che giấu tôi được nỗi đau nhất của anh, vì tình trong như đã mặt ngoài còn e”- ông Tín nhớ lại…Và những vần thơ của chàng cũng bất lực trước một mối tình lặng. Chàng chưa từng làm nổi một câu thơ để tặng nàng những ngày đầu tiên, cộng với tính nhút nhát không dám tìm cách nào để tỏ tình. Chính vì vậy, lời tỏ tình mãi mãi là bỏ yêu âm thầm thổn thức kéo dài cho đến tháng chạp năm ngày nọ, người chị tên Phu đột ngột vào thăm nhà chàng. Thay vì những điều chờ đợi trong lòng chàng một tin tức, hay một lời gửi gắm của nàng qua người chị đến chàng, thì lại là một thông tin làm chàng sững sờ không tin gặp lại, bà chị vồn vã chưa kịp hỏi han gì thì đã oang oang với mẹ chàng “O ơi, con tiếc quá, phải chi thằng Trí mà ưng con Trà thì hay biết mấy. Con nó thật đẹp, thùy mị dễ thương quá. Con đã để bụng cho thằng Trí rồi… Rứa mà… ”.Chàng vẫn yên lặng lắng tai chàng vặn hỏi “Mà chừ thì ra răng rồi?”. Bà chị vội nói “Bác Chí chị gọi bố nàng bằng bác nhờ con về mời o ra đám cưới con Trà”. Rồi bà chị quay sang bản mặt như đông đá của chàng “Con Trà em biết rồi đó, hắn sắp lấy chồng, chao! Chị tiếc quá, phải chi em nói một tiếng thì dễ quá”. Rồi bà chị quay sang nói nhỏ với em trai chàng “Con Trà có vẻ thương thằng Trí. Hỏi thăm luôn”.Chàng cười nhạt sau chiếc răng khểnh, rồi lặng lẽ đi vào những ngày sau, khi con tim cất lên những tiếng nấc khẽ về một sự tan vỡ lặng lẽ, chàng bắt đầu viết những dòng tâm sự cho nàng, với những câu thơ xa xót, đó chính là bài thơ “Buồn Thu”, một trong những bài thơ buồn nhất trong “Lệ Thanh thi tập”.Mối tình câm với nàng thầm lặng đến và thầm lặng đi, để lại trong lòng Hàn Mặc Tử một hối hận riêng tư lâu dài mà mỗi lần đọc bài “Buồn Thu”, vẫn còn xót thương cái ấp a ấp úng của tuổi 19, 20 khờ khạo rụt rè đã làm cho cuộc đời phải ngỡ ngàng, trước trớ trêu của định đó, Hàn Mặc tử còn ở tuổi đôi mươi. Nỗi buồn tuy không sâu sắc như những lần sau này nhưng với những tình cảm trong sáng chưa cọ xát với khổ đâu, cũng đủ để làm nên một “Buồn Thu” rưng rưng và hay nhất trong “Lệ Thanh Thi Tập”.Năm 1936, tức là khoảng 5 năm sau, khi xuất bản “Gái quê”, chàng ra Huế tìm gặp lại bà chị họ nhờ chị trao tặng nàng một tập. Nhưng có lẽ khi đó nàng cũng đã yên phận gia đình từ lâu nên chỉ có gửi đi mà không có hồi âm lại. Và cũng chẳng có hồi âm nào nữa từ cô gái thuở ban đầu bên dòng Hương Giang ấy cho đến cuối cuộc đời chàng…Chuyện tình Mộng Cầm – Hàn Mặc TửHàn Mặc Tử quen Mộng Cầm trong thời gian phụ trách trang văn chương cho tờ “Trong Khuê Phòng”. Mộng Cầm là cháu gọi nhà thơ Bích Khê bằng cậu, vì “lây nhiễm tinh thần thơ văn” của ông cậu trẻ tuổi nên cũng tập tành làm thơ gửi đăng Mặc Tử đã nhận một số bài thơ như thế của Mộng Cầm gửi đến và từ đó họ làm quen với nhau. Hai mươi năm sau ngày mất, vào năm 1961, nhà thơ Nguyễn Vỹ, chủ nhiệm kiêm chủ bút tạp chí Phổ Thông đã cử ông Châu Mộng Kỳ tìm gặp Mộng Cầm để thực hiện bài phỏng vấn về mối tình Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm. Nhờ mối quan hệ đặc biệt, ông Châu Mộng Kỳ là thày dạy con riêng của chồng Mộng Cầm, nên bài phỏng vấn mới thực hiện được. Trước đó nhiều nhà báo đã bị từ chối. Trong bài trả lời phỏng vấn đăng ở tạp chí Phổ Thông số 63, ra ngày 15/8/1961, Mộng Cầm đã phủ nhận hoàn toàn chuyện tình cảm giữa mình và Hàn Mặc Tử “Một dịp thứ bảy đi chơi lầu Ông Hoàng, anh thổ lộ mối tình với tôi. Tôi có trả lời anh Chắc là không thể đi đến chỗ trăm năm được, tôi nói trước để anh đừng hy vọng. Anh hỏi lý do. Tôi viện lẽ tôn giáo khác nhau, nhưng thật ra vì biết Hàn Mặc Tử mang chứng bệnh hiểm nghèo, không thể sống lâu được, ý tôi muốn một người chồng mạnh khỏe, tráng kiện… Tuy vậy chúng tôi vẫn giao thiệp thân mật một hai năm như thế. Trong thời gian này, có nhiều lần, Hàn Mặc Tử năn nỉ tôi dẫn về Quảng Ngãi thăm nhà và trong nhiều bức thư, anh đề cập đến vấn đề hôn nhân. Tôi vẫn trả lời, nhưng luôn luôn ngụy biện để từ chối Em thiết nghĩ chúng ta sống như thế này thanh cao hơn, tôn giáo bất đồng, chữ hiếu bắt buộc em phải nghe lời thân mẫu”.Bài phỏng vấn này đăng lên, Nguyễn Vỹ cho biết Mộng Cầm đã đọc và không có điều chi thắc mắc và ông kết luận “đã giải đáp dứt khoát một nghi vấn thường bị nhiều người xuyên tạc”. Tuy nhiên với độc giả, bài trả lời phỏng vấn của Mộng Cầm đã gây sốc. Bởi mối tình Mộng Cầm – Hàn Mặc Tử đã được người đời nâng lên thành huyền thoại. Ngay cả Ngọc Sương, dì ruột của Mộng Cầm, cũng phản đối. Rồi đến Quách Tấn, người đã ủng hộ việc Mộng Cầm đi lấy chồng khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y, cũng giận dữ trước lời phát biểu này. Quách Tấn viết “Cuộc tình duyên giữa Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm, tôi biết rõ lắm. Nhưng tôi chỉ nói những gì có thể nói được, nói những gì có thể giúp bạn đọc hiểu thêm tâm hồn Tử, văn chương Tử mà thôi”. Mộng Cầm đã nói thật hay nói dối? Vì sao nàng lại phủ nhận mối tình này? Thật ra, trong thời gian quen biết với Mộng Cầm, căn bệnh phong của chàng chưa bột phát. Ngay cả chàng cũng không hề “cảm thấy”, làm sao Mộng Cầm có thể “nhận ra”. Rất dễ thấy rằng đó là những lời nói dối của một người con gái muốn quên quá khứ để bảo vệ hạnh phúc hiện tại. Một lý do rất thường tình và đáng thông cảm. Mối tình Hàn Mặc Tử – Mộng Cầm đã được rất nhiều người gần gũi xác nhận. Trần Thanh Mại, một người bạn của chàng, đã công bố những chi tiết của mối tình này trong cuốn sách Hàn Mặc Tử xuất bản năm 1942. “Ấy là câu chuyện một đôi trai tài gái sắc yêu nhau, câu chuyện muôn đời ấy mà! Người con trai là Hàn Mặc Tử, người con gái, ta cứ theo nhà thi sĩ mà gọi là Mộng Cầm đi, mặc cái tên thực của họ. Hai bên đã thề nguyền những lời mà ta hiểu là thiết tha đằm thắm lắm. Thường thường thì họ hay gặp nhau ở hai tỉnh Quy Nhơn và Phan Thiết. Họ đưa nhau đi chơi bờ bể, họ đi viếng các danh lam thắng cảnh, nhất là lầu Ông Hoàng. Rồi họ xa nhau. Họ nhớ nhau, và tặng ảnh cho nhau. Họ coi như một cặp vợ chồng chưa cưới”.Hàn Mặc Tử đã sáng tác nhiều bài thơ đầy nước mắt về mối tình này. Trong bài Muôn năm sầu thảm, chàng đã kêu tên nàng một cách thảm thiết “Nghệ hỡi Nghệ muôn năm sầu thảm/ Nhớ thương còn một nắm xương thôi”. Bài Phan Thiết Phan Thiết, chàng nhắc tới những kỷ niệm xưa về lầu Ông Hoàng, nơi chàng và Mộng Cầm từng dạo chơi thuở nào “Ta lang thang tìm tới chốn lầu Trăng/Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang/Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết/Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!/Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi”.Kiều nữ trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ’ Bóng hình kiều nữ trong bài thơ tình được coi là thành công của nhà thơ Hàn Mặc Tử là hình ảnh của cô thôn nữ Hoàng Cúc. Nàng tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, sinh ngày 5/12/1913, kém Hàn Mặc Tử 1 tuổi. Cũng như Hàn Mặc Tử, Kim Cúc phải theo gia đình vào Quy Nhơn sinh sống vì cha nàng là công chức làm việc tại đây. Năm 1933, Hàn Mặc Tử vào làm cho Sở Đạc điền Quy Nhơn và quen Hoàng Tùng Ngâm – em thúc bá của Hoàng Cúc. Hoàng Tùng Ngâm sống trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà Hoàng Cúc, anh em bè bạn thường tụ tập chơi đùa, bình phẩm văn thơ. Hoàng Cúc khi đó đang tập tành viết báo với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ, nên cũng thường qua lại với Hàn Mặc Tử. Với bản tính đa tình, Hàn Mặc Tử đem lòng si mê Hoàng Cúc. Những bài thơ Mặc Tử viết tặng Hoàng Cúc đã đến tay nàng qua Hoàng Tùng Ngâm. Hoàng Cúc biết rất rõ tình cảm của Mặc Tử. Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn làm báo. Sau một thời gian, chàng về lại Quy Nhơn. Lúc này gia đình chàng đã dời đến cách nhà Hoàng Cúc chỉ vài căn. Tình xưa dậy sóng trở lại. Giờ đây, thi sĩ họ Hàn ít nhiều đã bạo dạn hơn trước. Bài thơ Hồn cúc đã chứng minh tình cảm của chàng “Bấy lâu sát ngõ, chẳng ngăn tường/ Không dám sờ tay sợ lấm hương/ Xiêm áo đêm nay tề chỉnh quá/ Muốn ôm hồn cúc ở trong sương”. Năm 1936, Hoàng Cúc theo gia đình về Huế sinh sống. Sau đó, nàng bắt đầu ăn chay trường, trở thành cư sĩ, sống cuộc đời lặng lẽ bí ẩn. Cũng trong năm đó, Hàn Mặc Tử in tập Gái quê, là tập thơ mới đầu tiên kể từ khi chàng bỏ làm thơ Đường luật. Mặc Tử mang theo một số tập ra Huế, và gặp lại Hoàng Cúc trong dịp hội chợ nhưng không dám tặng. Mặc Tử cũng tìm đến Vỹ Dạ – nơi ở của Hoàng Cúc – nhưng chỉ đứng ngoài cổng một lúc rồi bỏ đi. Nhiều năm sau đó, hai người không còn liên lạc gì với nhau. Một hôm, Hoàng Cúc nghe tin Mặc Tử bị bệnh phong, liền gửi thư thăm hỏi. Quá cảm động, Mặc Tử đã sáng tác bài Đây thôn Vỹ Dạ gửi tặng nàng. Chuyện tình Hoàng Cúc – Hàn Mặc Tử cũng có những điều gây tranh cãi như trường hợp Mộng Cầm. Hoàng Cúc đã có lần công khai phủ nhận chuyện nàng có tình cảm với Hàn Mặc Tử. Năm 1969, nhà thơ Quách Tấn, người bạn thân thiết của Hàn Mặc Tử, viết một hồi ký lấy tên Đôi nét về Hàn Mặc Tử đăng trên tạp chí Văn, trong đó có phần nói đến mối quan hệ giữa Hoàng Cúc và nhà thơ tài hoa bạc mệnh. Quách Tấn cho rằng hai người không thành duyên nợ là do thân sinh của Hoàng Cúc chê Hàn Mặc Tử không xứng. Hoàng Cúc đọc được hồi ký này, và ngày 15/3/1971, nàng gửi thư cho Quách Tấn để “nói lại cho rõ”. Hoàng Cúc phản bác một số chi tiết nhỏ mà Quách Tấn nêu ra “Hồi ấy tuy Tử ở gần nhà tôi, song Tử và tôi cách xa nhau như hai ngọn núi. Tử thì kín đáo và bẽn lẽn như con gái, còn tôi thì bí mật và xa lạ như cung trăng! Tuy thế Tử cũng đã tìm cách để gặp, nhưng vẫn chưa toại nguyện…”. Thế nhưng Quách Tấn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình trong các chi tiết thể hiện việc Hàn Mặc Tử và Hoàng Cúc có yêu nhau “Những chi tiết trong cuộc tình duyên của Tử – Cúc, thì nhất định ký ức tôi không phản tôi, vì không có gì phức tạp khó nhớ. Việc Tử nhờ người đến dạm là có thật. Người ấy là nhà thầu khoán Bùi Xuân Lang ở Quy Nhơn, vừa thân với Tử, vừa quen với cụ Hoàng Phùng”. Hoàng Cúc ngày ấy là một thiếu nữ trẻ trung yêu đời, lại ít nhiều có tâm hồn văn chương, việc đáp lại những tình cảm của một người như Hàn Mặc Tử là có thể xảy ra. Nhưng sau này cũng như Mộng Cầm, nàng đã cố gắng chôn chặt những điều thầm kín riêng tư vào cõi lòng. Là một người xa lánh cuộc đời để tìm đến cõi thiền, những chuyện tình cảm dù có cũng không thể phơi bày ra công chúng. Vì thế việc Hoàng Cúc phủ nhận chuyện tình cảm với Hàn Mặc Tử có thể hiểu được.
chuyên đề hàn mặc tử